- Lá thư thầy (5)
- Sư Viên Minh
Ngày … tháng …năm……
Con
thương mến,
Thầy
rất cảm động khi đọc thư con. Tiếc là thầy ở xa con quá để có thể
trong những trường hợp khó khăn như thế, chia sẻ với con những nỗi lo
âu phiền muộn, băn khoăn và đau khổ. Dẫu sao thầy vẫn yên tâm là trong
quyết định quan trọng như thế đối với vận mạng mình, con đã nghĩ đến
thầy và nhất là nghĩ đến những lời thầy dạy.
Trong
giới hạn của ngôn ngữ và trong khuôn khổ của một bức thư dĩ nhiên
không sao thầy có thể chuyển đạt đến con trọn vẹn những gì thầy muốn
nhắn nhủ để con có thể an tâm lên đường đi vào thế cuộc. Như tâm
trạng của người mẹ chuẩn bị hành trang cho đứa con trai duy nhất của
mình lên đường viễn xứ, dầu đã chuẩn bị vô cùng chu đáo vẫn chưa
yên lòng khi tiễn con đi. Và bây giờ khi con "xuống núi" thầy cũng
có một tâm trạng như thế. Tình thương là vậy. Nhưng thật ra thầy vẫn
bình thản dù con quyết định thế nào. Con có quyền làm theo ý muốn của
con mà thầy không hề cản ngăn hay khuyến khích, cũng không đưa ra một lời
tiên đoán hay cầu nguyện nào cho con cả. Vì
sao vậy ? Vì thầy muốn con trưởng thành. Chính "nghiệp mệnh" sẽ giải bày một cách
minh bạch và sống động nhất những gì nó cần phải giải bày. Hãy lắng
nghe với niềm tin trọn vẹn. "Thượng
đế" sẽ nói với con những gì Ngài muốn nơi con và sẽ trả lời
con những gì con muốn ở Ngài. Nghĩa là chân lý, pháp, nghiệp mệnh hoặc
nói cho dễ hiểu là đời sống luôn luôn tự thể hiện một cách chân thực,
con chỉ cần để tâm học hỏi là giác ngộ.
Bây
giờ thầy sẽ cố gắng một lần nữa trình bày sao cho con có thể lãnh hội
những gì thầy đã dạy hầu có thể cho con xuống núi với một nụ cười.
Thế là thầy an lòng.
Thầy
hiểu rất rõ tâm trạng con khi con viết : "Tâm con vô cùng dao động",
"rõ ràng là con không có sự tỉnh giác" hoặc "… con vẫn lo
âu, vẫn thất vọng, chán nản trước cái hiện tại và vẫn khổ
đau"… nghĩa là con muốn giải thoát ra khỏi những trạng thái ấy, những
khổ đau vật chất lẫn tinh thần ấy, cái hiện tại đầy thất vọng, đầy
chán nản ấy, bằng cách có một hành động tỉnh giác nào đó có thể
xóa bỏ chúng đi phải không ?
Nhưng
không phải thế đâu, con thương mến của thầy, con đã hiểu sai chữ tỉnh
giác mà thầy đã dạy. Nếu có một thứ tỉnh
giác nào như con hiểu thế, thầy e rằng nó chỉ là công cụ của ý muốn trốn tránh thực tại mà thôi !
Và trước hết tại sao con muốn giải thoát
? Phải chăng con muốn lẩn tránh cái hiện tại đầy chán nản khổ đau để
đạt được ở đâu đó một cái gì hạnh phúc hơn ? Nhưng nói cho cùng quả
thật không ai có thể trốn tránh nó được cả, và cũng không bao giờ có
được ở đâu đó một hạnh phúc khác hơn. Đúng là :
-
Đoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh
-
Xu hướng chân như tổng thị tà.
Con
ạ, giải thoát thật sự thì phải có trí tuệ, mà trí tuệ là thấy rõ
thực tại đúng như nó đang là. Phật dạy rất rõ ràng :
-
Sabbe sankhàrà aniccà' ti… (Dh 277)
-
Sabbe sankhàrà dukkhà' ti… (Dh 278)
-
Sabbe Dhammà anattà' ti
-
Yadà pannàya passati
-
Attha nibbindati dukkhe
-
Esa maggo visuddhiyà (Dh 279)
-
(Tất cả hành vô thường…
-
Tất cả hành là khổ…
-
Tất cả pháp vô ngã…
-
Thấy thế với trí tuệ
-
Liền thoát ly đau khổ
-
Đó là đường thanh tịnh)
Vậy
làm thế nào con có thể hy vọng thoát khỏi khổ đau khi bản chất các
hành là đau khổ ? Khi ba cõi bất an y như nhà lửa ? Và khi con không thật
sự giáp mặt với thực tại khổ đau bằng cái nhìn trí tuệ, mà chỉ lo
toan lẩn tránh hay tìm cầu một hạnh phúc nào khác trên thế gian ? Nói thế
không phải là đánh chấp nhận đau khổ một cách bi quan, hay đầu hàng khổ
lụy. Vì thực ra vẫn có giải thoát, nhưng không phải là giải thoát về
đâu mà là giải thoát chính mình ra khỏi vô minh ái dục để có thể
thong dong tự tại giữa cuộc đời đau khổ này. Và vẫn có hạnh phúc, nhưng
không phải thứ hạnh phúc loại trừ đau khổ mà là hạnh phúc dung nhiếp
khổ đau, một "paramam sukkam"
như Phật đã dạy.
Phật
dạy : "Santi paramam sukham" (an tịnh (Niết bàn) là hạnh phúc tuyệt
đối). Cũng như ở trên Ngài dạy : "Maggo visuddhi…" là để chỉ
một sự im lặng tuyệt đối trước tất cả mọi nỗi khổ đau trong cuộc
đời, sự im lặng dung thông được tất cả mọi trạng thái mâu thuẫn
hay hỗ tương của đời sống, chứ không phải là một trạng thái bất động
của cơn thiền định xuất thần như biết bao nhiêu người ngộ nhận.
Im
lặng tuyết đối cũng là Bát-nhã (Pannà), trí tuệ, viên chiếu, viên minh,
giác tánh, tự tánh v.v… qua đó các pháp tự thể hiện một cách chơn thật,
sống động. Và tuy rằng tướng của các hành, các pháp là vô thường, khổ,
vô ngã nhưng im lặng tuyệt đối vẫn viên dung vô ngại. Đó chính là hạnh
phúc, là giải thoát, ngoài ra không còn một hạnh phúc nào hơn được. Thầy
muốn nói nếu có một giải thoát nào từ chối sự hiện hữu của vô thường,
khổ, vô ngã thì đó là một sự giải thoát tạo nên càng thêm nhiều mâu
thuẫn và khổ đau, là một sự giải thoát giả tạo do chính bản ngã dựng
lên mà thôi.
Để
thầy kể cho con nghe câu chuyện vi tiếu này :
"Một thiền sinh bực mình về chuyện gì đó xảy ra trong viện với
các thiền sinh khác, đến than phiền với thiền sư. Sư nói :
-
Chuyện như thế mà con không đương nổi sao ?
-
Thưa thầy, con thà đương sự giải thoát chứ không thà đương cái chuyện
bực mình đó.
Sư
ôn tồn nói :
-
Thôi bỏ qua cái giải thoát của con đi, giải thoát thật sự thì vạn
pháp còn đương nổi huống là một chuyện bực mình".
Con
thương mến,
Bây
giờ trở lại vấn để tỉnh giác. Khi
con thấy "đây là dao động", "đây là lo âu", "đây
là thất vọng", "đây là chán nản", "đây là khổ
đau" v.v… là tự nhiên con đã tỉnh giác rồi đó. Nhưng vì con chưa
thấy được giá trị của tỉnh giác một cách vô tâm như thế nên con lại
xen vào đó ý muốn giải thoát, thế là
con đã đánh mất sự trong sáng vô tâm của vai trò tỉnh giác đích thực.
Ý muốn giải thoát biến tỉnh giác thành dụng cụ và như thế làm gia tăng
mâu thuẫn, chồng chất vô minh, trong khi tỉnh giác tự nó đã là cứu
cánh rồi con ạ. Thầy quả quyết nếu con dẹp đi ý muốn giải thoát (trốn
tránh thực tại) con sẽ phục hồi được nguyên tính của tỉnh giác và
nó sẽ giúp con thấy các pháp như thực
trong im lặng tuyệt đối, và con sẽ không ngờ đó lại chính là giải
thoát đích thực, là :
-
Mục đích có sẵn rồi
-
Nào phải vọng xa xôi
-
Dặm trình thong dong bước
-
Hoa trắng nở ven đồi.
Thật
vậy, có ai ngờ tất cả đang ở nơi thanh tịnh, chỉ vì vô minh, ái dục
vọng động dấy lên để rồi chỉ thấy đâu đâu cũng là luân hồi đau
khổ. Phật dạy trong Dìgha Nikàya : "Một
khi đã thanh tịnh thì thấy tất cả các pháp đều là thanh tịnh".
Vậy hãy coi chừng ý muốn giải thoát (lẩn tránh) là cái vọng động dấy
sinh làm mất thực tánh các pháp đang vận hành.
Khi
được hỏi : "Có cần ước muốn giải
thoát mới được giải thoát không ?", Đức Phật trả lời : "Dầu không có ước muốn giải thoát mà thực
hành đúng vẫn giải thoát" (Majjhama Nikàya).
Nhưng
thế nào là thực hành đúng ? Con chỉ cần sáng suốt, định tĩnh, trong lành
để có thể "thấy như thực thấy,
nghe như thực nghe, xúc như thực xúc, biết như thực biết" như Đức
Phật đã dạy. Một vị tỳ kheo biết mình sắp lâm chung liền tinh tấn thực
hành những lời dạy đó của Phật và đã tự mình giác ngộ giải thoát
hoàn toàn. Để thấy nghe như thực, vị ấy phải thấy nghe với im lặng tuyệt đối, phải để các pháp
hiện đúng bản lai diện mục của nó, chứ không thể lẩn tránh nó được.
Trong
kinh chép rằng có vị giải thoát như vậy ngay trong điều kiện mù lòa,
tàn tật hoặc bịnh hoạn liên tục, v.v… Thầy nhắc như vậy để một lần
nữa xác minh rằng giải thoát không cần phải loại trừ đau khổ. Đức
Phật cũng đã xác minh điều đó với một người đau khổ cùng cực nàng
Pàtacàrà, không phải diệt trừ khổ đau mà chỉ cần diệt trừ nguyên
nhân đau khổ. Trong im lặng tuyệt đối ở đó nguyên nhân đau khổ đã bị
loại trừ, chúng ta sẽ thấy cái gì hư ngụy tự nó hủy diệt và cái gì
chân thật sẽ tự hiển bày mà không cần phải dùng tới nhiều nỗ lực
của ý chí và ước mong lẩn tránh nào.
Con
ạ, thật là giản dị nếu con có ước muốn, con hãy lắng nghe trong im lặng
tuyệt đối rằng "đây là ước muốn". Nếu con có dao động, con
hãy lắng nghe trong im lặng tuyệt đối "đây là dao động". Nếu
con có chán nản, con hãy lắng nghe trong im lặng tuyệt đối "đây là
chán nản". Nếu có khổ đau, con hãy lắng nghe trong im lặng tuyệt đối
"đây là khổ đau"… Khi nào con như thực thấy "nó phát sinh
như vậy"… "nó an trú như vậy"… "nó hủy diệt như vậy"
tự nhiên con sẽ thoát ly đau khổ (Atha
nibbindati dukkhe) tuy rằng chúng vẫn đến và đi nhưng không bao giờ còn
có thể chi phối con nữa.
Cuối
cùng khi dừng bút, thầy tặng con bài thơ mà thầy đã viết tặng cho bằng
hữu của con ở nước ngoài :
-
No way to Nibbàna
-
Ways only to Màra
-
O man, just look at what you are !
-
And give up Màra with Nibbàna
-
No way to Pannà
-
Ways only to Avijjà
-
O man, just look at what you are !
-
And leave Avijjà to Pannà
-
But, O man, believe that
-
At last, no difference between them
-
Nibbàna and Màra
-
Avijjà and Pannà.
- Thân
ái chào con,
- Thầy
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/009-thu5.htm