- Ân Phật
- Thích nữ Tắc Phú
- Phật tại thế thời ngã trầm luân
- Kim đắc nhân thân Phật diệt độ
- Áo não thử thân đa nghiệp chướng
- Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Tạm dịch :
- Khi Phật hiện đời con nổi trôi
Nay được thân người Phật diệt rồi
Buồn thay thân con nhiều nghiệp chướng
Chẳng thấy thân vàng Phật ở đời.
Chẳng biết tự bao giờ, bài thơ
ấy đã in sâu vào trong tâm khảm của tôi. Mỗi lần nhắc lại, tôi
không sao tránh khỏi niềm cảm xúc trào dâng. Nửa thương cho người
xưa, nửa buồn cho thân mình cũng nhiều nghiệp chướng, tại gia cha
mẹ chia lìa, anh em phân tán, xuất gia quá đỗi muộn màng ! Vì sao ?
Hồi ấy, quê tôi thuộc vùng biên
địa, chùa chiền hiếm hoi, chung quanh đa phần là đạo Cao đài, xa thật
xa mới có một ngôi chùa nhỏ, đơn độc mỗi vị Thầy cư trú, trên
danh nghĩa ông Từ thắp hương hôm sớm, kinh điển chủ yếu tụng
Huỳnh đình. Ngày 30 tháng 04 năm 1975, Cách mạng đổi đời, chùa
được tiếp quản làm nơi hội họp. Tuy vậy, nhưng mẹ tôi vốn thích
đi chùa, bà thường hay lui tới, giúp đỡ vài phần việc nho nhỏ
cho Sư cô quản lý chùa. Còn tôi đi theo mà lòng chẳng hề cảm mến
chùa. Có lẽ vì Đức Phật Thích-ca nhỏ quá
nên không gây cho
tôi ấn tượng đặc biệt chăng ? Cho đến một hôm, tình cờ tôi
phát hiện quyển LỊCH SỬ PHẬT THÍCH-CA trong tủ sách của dì. Ban đầu
tôi chỉ đọc với tánh hiếu kỳ của đứa trẻ 13, muốn biết xem
Đức Phật là vị như thế nào ? Dần dần cuộc đời Ngài thu hút
tôi lúc nào không rõ. Quyển lịch sử ấy tôi đọc những ba lần,
mỗi lần đọc tôi đều xúc động đến rơi nước mắt. Tôi thật
sự cảm xúc trước đức hạnh và ý chí kiên cường của Đức
Phật. Giữa cuộc đời giả trá bạc đen, nhân cách của con người
được định bằng giai cấp, phẩm hàm địa vị. Thế mà đương thời
là một Thái tử tài ba lỗi lạc, Đức Phật đã dứt khoát ra đi,
khước từ sự sủng ái của vua cha, để lại hoàng cung vợ đẹp con
xinh, dấn thân vào con đường khổ hạnh, mong tìm ra chân lý cứu
khổ cho mình và cho nhân loại.
Còn hình ảnh nào não nùng hơn, khi
Thái tử ba lần vén màn từ biệt vợ thân yêu :
- Ra đi rồi lại trở vào
- Phút giây chia biệt dạt dào tình thương
- Song đây tiếng vọng vô thường
- Tình riêng gát lại chọn đường xuất gia.
Nhẫn nhục trước ngàn cơn cám
dỗ của lục trần, đại bi trước những lời thóa mạ, luôn
"lấy kẻ chống nghịch làm người ngao du, coi sự thi ân như đôi
dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến
thủ". Đức Phật đã từng bước vén bức màn vô minh cho nhân
loại, ánh sáng trí huệ bừng lên, không chỉ cho toàn cõi Ấn Độ
bấy giờ, mà mãi đến tận hôm nay, toàn thế giới cùng chung
hưởng.
Trang sử đời Ngài đã khép lại
nơi rừng Ta La Song Thọ cách đây hơn 2500 năm, nhưng đã để lại
tất cả sự chân thành, gần gũi, thân thương. Từ đó, với lòng
kính yêu Đức Phật, mến mộ con đường Ngài chỉ dạy, tôi thường
xuyên đến chùa, theo mọi người tụng kinh sám hối, công quả, mong
được tìm thấy hình ảnh Phật qua bóng dáng chư Tăng Ni, để củng
cố cho tôi một niềm tin vững chắc trước khi quyết định đi theo con
đường của Phật. Song, duyên may chưa đến cùng tôi lúc đó. Tôi
đành nán lại đợi chờ, hàng mấy năm liền.
Thế rồi, nhân duyên hội ngộ, từ
phong cách thanh thoát, lời nói ôn hòa, cởi mở, rất rộng lượng
khoan dung của vị thầy đầu tiên tôi tiếp xúc (giờ là đại sư
huynh) đã thực sự cho tôi niềm tin : Đức Phật Thích-ca là vị
Phật có thật trên cõi đời. Thầy sẵn sàng giải thích cho tôi nghe
những hoài nghi của tôi về Đức Phật, về hạnh nguyện của Ngài,
sẵn sàng hướng dẫn tôi vào Phật pháp, nhưng không bao giờ nói
cho tôi biết những nẻo đường quanh co khúc khuỷu, những ngang trái
"dò sông dò biển dễ dò". Có lẽ bấy giờ thầy sợ tôi
thối thất Bồ-đề tâm chăng ?
Hơn hai năm xuất gia ở chùa, cộng
với bảy năm học nội trú ở trường Cơ bản, tất cả các vị Ân
sư đã ân cần hướng dẫn cho tôi cách thức làm một hoa tiêu
giỏi, để lái con thuyền của mình vượt sóng trùng dương, tránh
những bẫy đá ngầm và cả những loài thủy quái. Tôi học thuộc
lòng và nhớ tất cả như bản cửu chương thời cấp một. Thế
nhưng, khi đối duyên xúc cảnh, chao ơi ! Không biết bao lần, con thuyền
tâm của tôi chao đảo trước những lượn ba đào : Tham - sân - si
đi kèm tám ngọn gió. Lúc ấy, tôi tự giận, dày vò, dằn vặt
chính bản thân mình. Tôi càng rứt bỏ những phiền não tư hữu thì
nó lại càng bám chặt. Trong si mê hỗn loạn, tôi đâu thể nào
chấp nhận nó và tôi đồng nhất thể "Phiền não tức
Bồ-đề" ?
Sau mỗi lần sóng gió lặng yên, nhìn
bức chân dung từ bi của Phật, tôi vô cùng hỗ thẹn
Ngày
tháng trôi qua, tôi lần mò tự mình tháo gút. Rồi duyên lành đưa
đẩy tôi vào lớp Huệ Quang, trong một buổi học, tình cờ nghe câu
giảng "Phiền não là tự suy mình" từ Kinh Lục độ, tôi
chợt bừng tỉnh mộng, lòng vui sướng khôn cùng. Bao năm qua cũng
ngần ấy nội dung mà sao tôi không hiểu ? Giá như bây giờ, có ai
hỏi vì sao tôi đi tu, chắc tôi chẳng biết đáp sao cho thỏa đáng.
Nhưng điều duy nhất tôi có thể biết chắc chắn là, nếu ở ngoài
đời tôi sẽ mãi mãi không cảm nhận được giá trị "Phiền
não là tự suy mình".
Kỷ niệm ngày Đức Phật thành
đạo, kỷ niệm ngày tôi xuất gia tròn 10 năm, biết bao buồn vui đi qua
trong tôi, dù có lúc hụt hẫng chơi vơi, nhưng Phật pháp đối với
tôi mãi là niềm tin sáng ngời bất diệt.
Lạy Đức Thế Tôn ! Con xin kính tạ
ơn Ngài, đã mở đường chỉ lối cho con vào pháp nhân duyên, niềm
tin sâu sắc nơi nhân quả.
Con xin kính tạ ơn những bậc Thầy
hướng đạo, đã dang rộng đôi tay từ ái bằng trí tuệ, bằng
đức hạnh đưa con vào nẻo đường chánh kiến an vui.
Hướng về ngày Đức Phật thành
đạo, mong sao muôn vạn sanh linh cùng gieo duyên Phật pháp. Người chưa
gieo trồng hạt giống Phật xin hãy đến. Ai đã gieo rồi xin ngày thêm
tăng trưởng. Và xin hãy nhớ :
- Khổ đau hay hạnh phúc
- Dù tương đối trong đời
- Nhưng vẫn đầy sức hút
- Khiến người phải chơi vơi
- Một phen bừng tỉnh mộng
- Mới hay ta lạc loài
- Dừng chân xoay trở lại
- Phiền não tự mình thôi !
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/018-tacphu-anphat.htm