- ÔNG BỤT GIỮA CHÚNG
TA
- LƯƠNG HỮU ĐỊNH
Đức Phật hay Phật đà, là Boudha,
là Giác Giả, mà chúng ta thường gọi là Ông Bụt". Khi đọc nghe lời
giảng này, chúng tôi thật rung động trong lòng: thì ra Ông Bụt mà chúng
ta có dịp làm quen từ các chuyện cổ tích thời thơ ấu, chuyện Tấm Cám,
chuyện Thằng Bờm, chuyện Cây tre trăm đốt, cái hình ảnh quen thuộc ấy
hóa ra lại là đức Phật. Tuổi thơ nào của chúng ta mà không thẫm màu cổ
tích, chắc chắn đã có hơn một lần bị mẹ mắng oan, chúng ta đã trốn
vào một góc nhà, ngồi khóc ấm ức, để chờ một ông Bụt hiện ra, và
Bụt sẽ hỏi tại sao con khóc, chúng ta sẽ kể lể, nghe xong, Bụt sẽ nói
thôi nín đi, này Ta cho con... Ôi những ước mơ mà chúng ta hằng ấp ủ...
Rồi chúng ta lớn lên, Ông Bụt vẫn
hiện hữu, nhưng đã thay hình đổi dạng.
1. HIỀN NHƯ
BỤT
Khi gặp một người hiền hòa, dễ
tính, chúng ta thường nói "hiền như cục đất". Cục đất thì muốn
nắn sao cũng được, nhưng nó xù xì, đen thui và xấu xí. Nhưng nếu nói
"hiền như Bụt", thì đó lại là đôi mắt từ bi của Phật
Thích-ca nụ cười khoan dung của Phật Di Lặc, hay khuôn mặt cứu khổ của
Phật Quan Thế Âm. Khác hẳn.
Một người không biết là mình có
trâu, thì dửng dưng như cục đất. Một người bắt được trâu, thỏng
tay vào chợ, thì an nhiên tự tại. Bề ngoài thì giống nhau, nhưng nội tâm
thì một trời một vực. Chúng ta thường mô tả cảnh giới Thiền là
"Trước khi Thiền, núi là núi, sông là sông. Trong khi Thiền, núi không
phải là núi, sông không phải là sông. Sau khi Thiền núi là núi, sông là
sông".
Sự khác nhau sẽ chỉ thể hiện ra
khi gặp hoàn cảnh khó khăn. Cùng đi vào chợ, cùng thấy những của ngon vật
lạ, nhưng người hành khất thì khác, mà vị hành giả thì lại khác. Người
ta kể một vị Ni sư đang đi khất thực, trời mưa, mọi người chạy tán
loạn, vị Ni sư vẫn bình thản cầm bình bát, bước theo nhịp độ của câu
kinh đang niệm. Một vị Thiền sư vừa trong chợ bước ra, có người hỏi
ngài đi đâu về, ngài đáp "bần Tăng mới ở Thiền đường về".
Ông Bụt giữa chúng ta.
2. PHẬT CỨU
KHỔ
Hình như đây là dấu tích của thời
thơ ấu với hình ảnh Bụt chỉ thấy hiện ra cho những người đau khổ.
Chúng ta thường chỉ đến với Phật khi đau khổ. Chúng tôi phải xin lỗi
trước khi nhắc lại thành kiến "chán đời thì đi tu, tìm quên trong
tiếng kinh câu kệ". Có thể đó là do lỗi của một số nhà văn kiểu
tác giả "Truyện tình Lan và Điệp", các vị ấy kể một câu chuyện
tình thật lâm ly bi đát, rồi trắc trở tình duyên, rồi không lấy được
nhau, thế là nàng bỏ đi tu. Một giải pháp đơn giản nhưng bế tắc.
Chúng tôi nói bế tắc là vì các văn
sĩ ấy đã dừng lại trước cổng chùa, với tưởng tượng rằng ở trong
chùa, con người đau khổ ấy sẽ được đức Phật đưa tay ra đón về Niết-bàn,
Cực lạc thế giới. Sự thực xảy ra đằng sau cánh cổng tam quan không phải
như vậy. Đức Phật không bồng bế ai lên Niết-bàn, nhưng chỉ dùng ngón
tay để chỉ cho họ thấy mặt trăng, thấy con đường mà họ phải đi. Họ
sẽ phải tự mình dấn bước và đường đi gian nan lắm. Mà khi tới rồi
thì sao nhỉ? Có khi đức Phật lại chỉ họ đường về nhà. Vâng, thật
đấy: "Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa".
Ngôn ngữ bác học nói rằng sau khi tự giác thì phải giác tha, mới tới
giác hành viên mãn.
Không chỉ khi thất vọng về tình
duyên, chúng ta mới tìm đến chùa, mà khi buôn bán thua lỗ, chúng ta cũng
chạy đến với Bụt, thậm chí đã giàu rồi, còn xin Phật cho giàu hơn nữa.
Một mâm trái cây, một cặp đèn cầy, một thẻ nhang, vái ba cái rồi tha
hồ mà xin buôn may bán đắt, nhất bản vạn lời. Xin không được thì
chê Bụt nhà không thiêng, bỏ đi cầu ông hoàng bà chúa nơi cửa phủ sân
đền.
Than ôi, đang khát mà cứ uống nước
muối thì làm sao cho hết khát được. Lửa tham dục đang bốc lên, lại
đem xăng dầu đổ vào để mong dập tắt được? Đức Phật đã bỏ cung
vàng điện ngọc để tìm đường giải thoát, thì khi nào lại muốn chúng
ta bị trói buộc trong tiền tài danh vọng? Đừng cầu đức Phật giúp
chúng ta thỏa mãn lòng tham, nhưng cầu xin giáo pháp Ngài làm dịu lòng ham
muốn ấy. Hãy cầu "thân tâm thường an lạc", đừng cầu thân
này không bệnh tật. Cầu thử xem, Bụt chùa nhà cũng thiêng lắm đấy.
Đức Phật là một ngọn đèn đã
được thắp sáng, chúng ta là những ngọn đèn chưa thắp, chỉ cần châm
vào giáo pháp của Ngài, để nó thấm vào lòng ta, thì ngọn lửa sẽ bùng
lên trong chúng ta. Đừng tự giam mình trong bóng tối, đừng cầu ngọn đèn
tự cháy. Hãy đến với Ngài, với Ông Bụt chùa nhà.
3. MỘT CÂU
THẦN CHÚ
Hồi nhỏ tôi rất sợ ma, ban đêm
không bao giờ dám đi vào chỗ tối một mình. Sau có một người bạn mách
tôi rằng khi muốn đuổi ma quỷ, thì hai tay bắt quyết, nghĩa là lấy hai
ngón tay cái bấm chặt vào đầu hai ngón trỏ, miệng hô "Úm ma ni bát
mê hồng" là ma quỷ sẽ không dám dọa nạt nữa. Tôi đã thử và quả
nhiên không gặp ma. Tôi tin tưởng đức Phật giúp tôi đuổi tà ma giống
như chuyện sự tích cây nêu ngày Tết. Tôi bày lại cho các bạn khác, và
chúng tôi đều hết sợ ma. Trong đầu óc trẻ thơ của chúng tôi, đó là
một câu thần chú vạn năng.
Mãi tới khi đi sâu vào Thiền học
Tây Tạng, chúng tôi mới biết rằng thực ra đó chỉ là một chân lý:
"Aum là hỡi, Mani là viên ngọc lưu ly, Patme là trong bông sen, Hum là âm
linh thiêng. Aum Mani Patme Hum, là "Hỡi viên ngọc lưu ly trong bông
sen". Hoa sen thì chúng ta đã quá quen thuộc, gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn. Đức Phật ngự trên tòa sen, chính là viên ngọc lưu ly mà chúng
ta hằng chiêm ngưỡng, suy niệm. Aum Mani Patme Hum nôm na là lạy Phật, Phật
trên tòa sen và Phật trong mỗi chúng ta.
Thật vậy, nếu ví thân xác chúng
ta như đóa sen, thì Phật tính chính là viên ngọc lưu ly trong đóa sen ấy.
Theo các Thiền sư Tây tạng, thì viên ngọc lưu ly bên trong quý hơn viên ngọc
ở bên ngoài. Khi các ngài nhập Thiền, chính là chiêm ngắm viên ngọc ở
bên trong. Nếu giữ được tâm niệm ấy, thì đi đứng nằm ngồi đều là
Thiền cả. Có vị còn đi xa hơn, cho rằng viên ngọc bên ngoài chỉ là
hình bóng của viên ngọc bên trong. Chuyện kể rằng một vị Thiền sư có
rất nhiều đồ đệ, theo học ở trong hang núi. Tất cả các đồ đệ đều
giác ngộ và được thầy cho xuống núi, duy còn một vị tu đã lâu mà chưa
giác ngộ. Phải đợi tới một ngày tuyết rơi, trời lạnh, trong hang hết
củi, vị Thiền sư chẻ bức tượng Phật bằng gỗ ra, bỏ vào đống lửa,
thì vị đồ đệ cuối cùng ấy mới bỗng nhiên giác ngộ: Hình tượng đức
Phật chỉ giúp chúng ta tìm thấy Phật tính ở trong mỗi chúng ta, nếu dừng
lại ở ảnh tượng thì sẽ còn quanh quẩn trong mê đồ.
Vậy là chúng tôi mất một câu thần
chú, mất một phương tiện để cầu cứu. Nhưng thay vào đó, chúng tôi lại
tìm thấy một sức mạnh ở bên trong. Sức mạnh mà các nhà Nho gọi là
"Đức trọng quỷ thần kinh", hay ông bà chúng ta dạy rằng "đừng
ngồi chiếu lệch giường nghiêng, ngồi cho ngay ngắn cũng thiêng bằng thần".
Bụt, thần tại tâm. Biết như vậy rồi, thì chẳng cần ấn quyết, thần
chú, tà ma cũng không phạm được tới chúng ta.
Kết luận:
BỤT TRƯ` TÀ MA
Qua khỏi thời thơ ấu, chúng ta bước
ra khỏi thế giới truyện cổ tích. Đắm chìm trong cuộc sống, chúng ta tưởng
như không bao giờ được gặp lại Ông Bụt nữa. Nhưng không, Bụt cũng
bước vào cuộc sống với chúng ta. Chúng ta thử nhìn chung quanh xem, có những
người hiền như Bụt, sáng suốt như Bụt hay can đảm như Bụt. Thật vậy,
nói nhiều thì cũng chẳng qua nổi ba chữ Bi, Trí và Dũng của Phật giáo.
Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy một viên ngọc lưu ly trong cái thân xác
vô thường này. Danh vọng, tiền bạc rồi sẽ qua đi, Phật tính trường tồn.
Chân lý không chỉ để cất trong sách
vở, để suy niệm, mà còn để đem ra giúp đời nữa. Chúng ta đang bị vây
hãm bởi tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, phải chi những người ấy biết rằng
trong họ có viên ngọc quý mà mọi tội lỗi của họ chỉ càng làm cho
viên ngọc ấy bị nhơ bẩn thêm? Xã hội chúng ta còn phải đương đầu với
cờ bạc, rượu chè, mãi dâm, ma tuý? Đừng thất vọng, dù đóa sen có úa
héo, viên ngọc quý trong đó vẫn ngời sáng.
Đem đạo đức của Phật giáo vào
cuộc đời chính là giữ viên ngọc quý của chúng ta được luôn ngời
sáng, là giúp người khác tìm thấy viên ngọc trong lòng họ, chúng ta sẽ
reo mừng lên, cùng đưa viên ngọc ra, và thế gian này sẽ ra khỏi tăm tối,
sẽ bừng sáng, sẽ giác ngộ. Aum Mani Patme Hum.
LƯƠNG HỮU ĐỊNH
Tháng Giêng / Quý dậu
Chân thành cám ơn cư sĩ Bình Anson đã gửi tặng phiên bản
điện tử
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/025-ongBut.htm