Lời giới thiệu:
Đây là bức thư riêng của nhà nghiên cứu và giảng dạy Hán văn Phạm Phú
Thành gởi cho tôi (Giác Hoàng), một trong các học trò cũ của ông. Nhân vì
thấy bài viết hữu ích cho những ai muốn xác định cách đọc phương danh của
Đường Tam Tạng Pháp Sư nhà Đường là Huyền Trang hay Huyền Tráng, nên chúng
tôi sao lại và phân chia bố cục theo ý mình, đồng thời có bổ sung vài điểm
cần thiết.
Vài năm trước tôi có đánh máy
lại rồi chia sẻ với bạn bè, nhưng vì không có phông chữ Hán. Nay có thân
hữu nhờ sao lại đính kèm chữ Hán, thế là tôi đánh máy lại một lần nữa, xin
gởi tặng bạn bè. Kính mong đón nhận sự đóng góp của các bậc tinh thông Hán
học.
I. Lời Tự Sự
Việc phiên âm chữ Hán Việt cho
tới ngày nay vẫn còn là một vấn đề cần phải minh định, đặc biệt là giới
học giả có thẩm quyền về ngữ văn Hán Nôm, có lẽ nên quan tâm hơn về vấn đề
này. Cách phiên âm của miền Bắc và miền Nam thỉnh thoảng có khác biệt chút
đỉnh do địa phương tính, người đọc tạm có thể chấp nhận. Ví dụ: cùng một
chữ 命
mà miền Bắc đọc là “mệnh”,
miền Nam đọc là “mạng”, hoặc
山
“sơn” và “san” tuỳ theo
âm điệu trong thi ca mà có thể dùng cả hai. Nhưng có lẽ khó lòng chấp nhận
tên của một bậc pháp sư lỗi lạc có công rất lớn cho nền Phật học Đại thừa
ở Trung Quốc, và sau này ảnh hưởng đến các nước láng giềng khác như Việt
Nam, Nhật Bản, Triều Tiên lại có sự khác biệt trong cách phiên âm của
người Việt.
Thông thường, trong các sách
bằng tiếng Anh và Pháp, các tác giả, dịch giả phương Tây thường phiên âm
chữ Hán theo hệ thống của Sir Thomas F. Wade và H. S. Giles.
Họ thường không đánh dấu thanh hoặc đánh không chuẩn xác như trong trường
hợp của hệ thống phiên âm tiêu chuẩn Bắc Kinh của Trung Quốc hiện nay. Vì
thế, cách phiên âm danh từ riêng Trung Quốc trở nên thiếu nhất quán, ví dụ
tên của một vị đại sư rất nổi danh như đã nói ở trên có ít nhất 6 cách
phiên âm: Huan Chwuang, Yuén Chwàng, Hiuen Tsiang,
Hsuan Chwuang, Hhuen Kwân và Yuan Chwuang tuỳ theo cách
đọc của mỗi học giả, giáo sư như: Mayers, Wylie, Beal, Legge, Bunjiu
Nanjio và Thomas Watters. Chưa kể cách phiên âm theo cách đọc của người
Pháp như Hiouen Thsang hoặc Youan Thsang mà trong một số tác
phẩm nghiên cứu viết bằng Anh ngữ vẫn sử dụng. Cách phiên âm không nhất
quán như vậy làm cho người đọc không biết từ nào là chuẩn xác nhất và rất
bất tiện khi tra lại từ gốc nếu không có kiến thức thật tốt về Hán ngữ.
May thay, nền Hán
Việt Việt Nam mang tính thống nhất hơn, chỉ có một hai trường hợp ngoại
lệ. Tuy nhiên, gần đây có một vài vị (Thầy Tuệ Sĩ, Sư Giác Nguyên và một
số vị nghiên cứu văn học Trung Quốc) phiên âm tên của vị Pháp Sư lâu nay
đã quen là
Huyền
Trang
thành
Huyền
Tráng, làm
cho một vài vị hơi bỡ ngỡ không biết đó có phải là đánh máy nhầm không ?
Điều này thật ra chẳng có gì mới mẻ lắm, Đào Duy Anh đã phiên âm Huyền
Tráng từ lâu rồi, nhưng phần lớn không được các học giả sử dụng và vẫn giữ
theo truyền thống là “Huyền Trang” như Thiều Chửu. Vậy cách phiên thiết
(cách đọc một chữ mới chưa có phiên âm cụ thể) tên của Ngài Huyền Trang,
hoặc Huyền Tráng, cách nào đúng nhất ? Nhân đây, xin trình bày một vài ý
để các học giả và các nhà ngữ văn Hán nôm góp ý và bổ sung.
II.
Chữ
奘
Trong
Các Tự Điển và Từ Điển
1. Khang Hy Tự
Điển
Trong Quảng Vận
(廣
韻),
chữ 奘
này được
phiên thiết là “trở lãng thiết” (俎
朗
切).
Trong Tập Vận (集
韻)
được phiên thiết là “tài lãng thiết” (才
朗
切).
Trong Chính Vận nó được phiên thiết là “tại đảng thiết” (在
黨
切),
đọc theo âm chữ tàng (藏)
thượng thanh (tức là đọc tảng hoặc tãng, vì chữ thượng thanh
thuộc dấu hỏi hoặc dấu ngã).
Trong sách Dương
Tử Phương Ngôn (楊
子
方
言)
ghi: Vào thời Tần, Tấn, người to lớn gọi là
tảng (奘)
hoặc gọi
là tráng (壯).
Lại nữa, trong Tập Vận (集
韻),
Vận Hội (韻
會),
Chính Vận
(正
韻),
奘
được phiên
thiết là “tài lãng thiết”, âm táng
葬;
vào thời Đường Trinh Quán, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Tảng dịch Tâm Kinh.
2. Từ Nguyên:
奘
tự lãng thiết
(字
朗
切),
tàng thượng thanh (藏
上
聲),
vần dưỡng [dãng] (養
韻
); có nghĩa là: 1. To lớn, 2. tên người, đời Đường có pháp sư Huyền
Tảng.
3. Từ Hải:
奘
tự lãng
thiết, vần dưỡng [dãng], nghĩa là to lớn. Vào thời Tần Tấn, phàm người to
lớn gọi là “tảng”. Xem sách Phương Ngôn.
4. Hình Âm Nghĩa
Tổng Hợp Đại Tự Điển
của Cao Thụ Phiên (Đài Loan).
奘
là chữ hội ý
và hình thanh, trong Giáp văn (甲
文)
và Kim văn (金
文)
không có chữ
奘
; trong Tiểu triện (小
篆),
奘
hợp 2 chữ “đại” (大)
và “tráng” 壯
, đọc theo thanh tráng
壯.
Phàm to, khoẻ gọi là
奘.
Nguyên nghĩa của nó được giải thích bằng câu: “Vào thời Tấn, Tần, phàm
người to lớn được gọi là
奘
(xem sách
Phương Ngôn),” ngụ ý là hình dung người to lớn, khoẻ mạnh. Nghĩa gốc
này, thời cổ vẫn thấy ít dùng; nay chữ này được dùng theo nghĩa khác.
[Âm]:
1. tài lãng thiết. Trang thượng
thanh. “Joang” đọc thượng thanh, như
thanh của chữ dưỡng [dấu hỏi hoặc dấu ngã]. 2. tài lãng thiết: âm
táng (葬);
“Tzang” đọc khứ thanh, như thanh của chữ dạng
漾
[dấu hỏi hoặc dấu ngã].
[Nghĩa]:
(danh từ) Huyền
奘
[ T?], tên vị cao Tăng đời Đường.
[Biện chính]:
Chữ 奘
không đọc như chữ
壯
(Tráng), cũng không đọc là
裝
(Trang). Người ta
thường đọc lầm.
5. Pletit Lexique
Chinói-Annamite- Francais
(Tây Dương, Hà Nội, 1932).
奘
, được phiên âm là
Tảng: Khoẻ, lớn: Fort et grand.
6. Hán Việt Từ Điển
của Đào Duy Anh.
奘
được phiên âm là
Tráng, có nghĩa: mạnh mẽ, thịnh vượng.
7. Hán Việt Tự Điển
của Thiều Chửu.
奘
được phiên âm là
Trang; 1. To lớn, 2. Tên người, đời
Đường có Ngài Huyền Trang pháp sư.
8. Từ Điển Hán Việt Hiện Đại
của Mai Lý Quảng (Hà Nội, NXB Thế Giới, 1994).
奘
/ Zhuăng / tráng : (phương ngữ): to lớn.
III. Đối Chiếu
Với Các Cách Phiên Thiết Của Chữ 奘
Trong Quảng Vận:
俎
朗
trở lãng > trãng /
trảng
Trong Tập Vận:
才
朗
tài lãng > tãng /
tảng
Trong Chính Vận: 1.
在
黨
tại đảng > tảng /
tãng;
2.
才
朗
tài lãng > tãng /
tảng
Trong Vận Hội:
才
朗
tài lãng > tãng / tảng
Trong Từ Nguyên:
字
朗
tự lãng > tãng /
tảng
Trong Từ Hải:
字
朗
tự lãng > tãng /
tảng.
Cao Thụ Phiên:
才
朗
tài lãng > tãng / tảng
才
浪
tài lãng > tãng / tảng
Tóm lại, nếu căn cứ vào bảng so
sánh các cách phiên thiết đối chiếu ở trên, chữ
奘
phải đọc là “tãng”
hoặc “tảng.” Cao Thụ Phiên ở phần
biện chính nói: chữ
奘
không đọc là “tráng”
壯,
cũng không đọc là “trang”
裝.
Vậy tại sao có hiện tượng phiên âm chữ
奘
thành “trang”
(Thiều Chửu), hoặc tráng (Đào Duy
Anh, Mai Lý Quảng, ….), còn trong cuốn Petit Lexiquet Chinois-Annamite
– Francais của Tây Dương lại phiên âm đúng là “tảng.”
IV. Vài Ý Kiến Nhỏ
1 Chữ
Trang
trong Hán Việt Từ Điển của Thiều Chửu đã phiên âm nhầm.
2. Phải chăng có vị đã diễn
dịch câu trong Khang Hy Tự Điển, mà các từ điển về sau thường dẫn
lại, đó là câu: “秦
晉
閒
人
大
謂
之
奘
或
謂
之
壯:
Tần Tấn gian nhân đại vị chi
奘
hoặc vị chi
壯”,
nghĩa là: vào thời Tần, Tấn, người to lớn gọi là
tãng (奘)
hoặc gọi là tráng (壯).
Câu này không có nghĩa là hai chữ
奘
và
壯
đồng âm, đồng nghĩa. Hiểu nhầm sẽ dịch là: Vào thời Tần Tấn, người to lớn
gọi là tráng 奘
hoặc gọi là tráng
壯.
Nếu câu văn trên đồng âm đồng nghĩa, thì câu văn ấy sẽ là: “秦
晉
閒
人
大
謂
之
奘,
奘
亦
[又
也
…] 作
壯.
Tần, Tấn gian nhân đại vị chi tráng,
tráng diệc [hựu, dã] tác tráng
壯”
(vào thời Tấn, Tần người to lớn gọi là tráng
奘,
tráng
奘
cũng viết là
tráng
壯
.
Ta thử nêu một câu văn có cấu
trúc tương tự: Việt Nam nhân trư vị chi lợn hoặc vị
chi heo: người Việt Nam, trư gọi là lợn hoặc gọi là
heo; lợn và heo chữ nôm đồng nghĩa chứ
không đồng âm.
3. Tâm lý chung, tên của các
bậc cao Tăng khi đọc lên nghe hay cả âm lẫn nghĩa thì người ta dễ chấp
nhận hơn, như trường hợp âm Trang,
hoặc Tráng so với âm
Tãng
hoặc Trảng.
4. Cách phiên thiết truyền
thống của tiếng Hán Việt vốn dựa trên cơ sở ngữ âm tiếng Hán cả. Chẳng
hạn chữ 慧,
âm cổ là tuệ, âm hiện đại là huệ. Sao chổi, tiếng Hán Việt
là tuệ tinh 彗
星
(theo âm cổ), nhưng
người Hoa hiện nay gọi là hùixing / huệ tinh.
5. Vậy, nếu chúng ta dựa vào âm
Hán ngữ hiện đại để phiên âm chữ Hán Việt thì chưa hẳn là biện pháp tốt.
Phương pháp phiên thiết vẫn có nhược điểm của nó, chẳng hạn, trong tự điển
của người Trung Quốc, có nhiều chữ sau phiên thiết được kèm theo một chữ
đồng âm, chữ này lại khác âm người Việt Nam đọc. Thí dụ:
Khang Hy
:
抓
trảo, phiên thiết ….,
chữ đồng âm là:
蚤
tảo.
Từ Hải
:
悼
điệu, phiên thiết ….,
chữ đồng âm là
導
đạo.
Từ Nguyên
:
奸
gian, phiên thiết…, chữ
đồng âm là 干
can.
Vương Vân Ngũ
: 仕
Sĩ: (không có phiên
thiết), chữ đồng âm là
事
sự.
Dù sao, đối với người Việt Nam,
cách tốt nhất vẫn là căn cứ trên phiên thiết đối chiếu để chọn âm thích
hợp, và đành chấp nhận một sự tương đối nhất định về tính chính xác.
Âm
Trang gợi lên cái biểu tượng trang
nghiêm, âm Tráng gợi lên biểu
tượng hùng tráng, cả hai đều tốt cả. Chỉ có âm
Tãng hoặc
Tảng hợp phiên thiết hơn hết, và
nghĩa chữ cũng hay, nhưng có lẽ vì âm lạ tai và không gợi cho người nghe ý
vị gì nên quần chúng, nhất là quần chúng không có duyên học chữ Hán, lại
vốn quen cách phiên âm từ trước, khó lòng mà chấp nhận.
Lại nữa, ngữ âm tiếng Hán hiện
đại là kết quả của quá trình biến hoá từ ngữ âm cổ của họ. Nếu chúng ta
lấy nó làm chuẩn tắc để phiên âm, e rằng chúng ta không giữ được sự nhất
quán với cách phiên âm của tiền nhân. Về lâu về dài, điều này sẽ gây khó
khăn cho hậu thế khi nghiên cứu cổ thư.
Tóm lại, theo thiển ý chúng tôi,
chúng ta nên áp dụng cách phiên thiết cổ điển, và chỉ khi nào gặp khó khăn,
mới nên có sự đối chiếu với ngữ âm tiếng Hán hiện đại của người Trung Quốc.
Viết bài này, chúng tôi không
có ý đề nghị điều chỉnh một âm thanh quen thuộc vốn được lưu truyền từ lâu
trong các thư tịch, và chính mình cũng quen gọi là “Huyền Trang.” Nhân vì
hiện có một số vị đang phân vân về vấn đề này, chúng tôi tìm hiểu để đưa
ra một nhận định, chủ yếu cho chính mình, tạm gọi là có phần dựa trên cơ
sở ngữ âm học.
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/huyentrang.htm