- Nguyên Nhân Lũ Lụt Lớn
ở Đồng Bằng Sông Hồng
- Trần Tiễn Khanh và Nguyễn
Khoa Diệu-Lê
- (11/2001)
Đây
là bài thứ ba trong loạt bài Nguyên Nhân
Lũ Lụt Lớn ở Việt Nam. Hai bài trước đã trình bày nguyên nhân lũ lụt
tại Đồng Bằng Sông Cữu Long (ĐBSCL) và ở miền Trung. Mục đích của loạt
bài là tìm hiểu nguyên nhân gây nên lũ lụt một cách khoa học và khách
quan, để đề phòng lũ lụt môt cách hữu hiệu và giảm thiểu các tổn
thất.
Lũ lụt là thiên tai lớn
nhất đe dọa nước Việt Nam ta, nhất là ở miền Bắc vì tổn thất nhân
mạng có thể đến mức độ khủng khiếp. Cơn lũ vào tháng 8 năm 1971 đã
làm vỡ đê Sông Hồng và 100,000 người đã bị thiệt mạng. Đây là cơn
lũ lớn nhất trong vòng 250 năm nay ở miền Bắc, và số tổn thất nhân mạng
vượt quá sức tưởng tượng so với tổn thất chừng 1000 người trong các
cơn lũ lịch sử vào năm 1999 ở miền Trung và năm 2000 ở miền Nam. Trận lũ năm 1971 được liệt kê
trong danh sách các trận lụt lớn nhất thế kỷ 20 của Cơ Quan Quản Trị
Hải Dương và Khí Tượng Hoa Kỳ (“Top
Global Weather, Water and Climate Events of the 20th Century”, U. S.
National Oceanic & Atmospheric Administration). Lũ lịch sử năm 1971 đứng hàng nhì sau
trận lụt năm 1931 ở Sông Dương Tử làm
thiệt mạng gần 3 triệu 700 ngàn nguời ở Trung Hoa.
Hàng năm những trận bão biển
và gió mùa Tây Nam đã gây nên những trận mưa lớn ở miền thượng du
cũng như đồng bằng miền Bắc. Do
ảnh hưởng của biến động thời tiết trên toàn thế giới vì dòng nước El Nino và La Nina, những trận
bão biển và mưa lớn xảy ra càng khốc liệt hơn. Mùa bão thường kéo dài từ tháng 6 đến
tháng 10, và trung bình hàng năm có 4 cơn bão.
Những cơn bão này thường xuất phát từ Phi Luật Tân, Biển Đông và Tây Thái
Bình Dương rồi 3-4 ngày sau sang đến bờ biển nước ta. Địa hình thượng
lưu các sông gồm các vùng đồi núi với độ dốc lớn nên nước mưa đỗ
nhanh chóng xuống vùng đồng bằng. Mỗi
khi có mưa to, vùng đồng bằng Sông Hồng nhận nước lũ từ hai hệ thống Sông Hồng và Sông Thái
Bình. Hệ thống Sông Hồng bao gồm Sông Đà, Sông Hồng, Sông Thao nhập lưu
tại Việt Trì, và hệ thống Sông Thái Bình gồm các nhánh chính là Sông Cầu,
Sông Thương, sông Lục Nam nhập lưu tại Phả Lại. Dầu được bảo vệ bởi
môt hệ thống đê dài trên 3000 km, nhưng đa số các
trung tâm đông dân cư đều nằm dưới mực nuớc lũ Sông Hồng. Vì vậy
khi mưa quá to và nước lũ làm vỡ đê làm nhiều nguời thiệt mạng.
Trong vòng 100 năm qua, đồng bằng sông Hồng đã có 26
trận lũ lớn. Các trận lũ lớn đa số xảy ra vào tháng 8, nhằm vào cao
điễm của mùa mưa bão. Đặc biệt vào năm 1971, ảnh hưởng dòng nước lạnh
La Nina đã gây nên những trận mưa to
liên tục vào mùa bão năm đó. Một cơn bão từ miền nam Trung hoa gần Hồng
Kông mang đến những trận mưa to trên các Sông Thao, Sông Lô và Sông Đà.
Nuớc lũ từ các sông này đã hợp lại gây nên cơn lũ lịch sử của đồng
bằng Sông Hồng. Mực nước Sông Hồng ngày 20 tháng 8 lên đến 14,13 m ở
Hà Nội. Mực nước ở Hà Nội này cao hơn mực nước báo động cấp III
đến 2,63 m. Mực nước Sông Hồng đo được 18,17 m ở Việt Trì (cao hơn
2,32 m mức báo động cấp III) và 16,29 m ở Sơn Tây (1,89 m cao hơn mức báo động cấp III). Đồng thời mực
nước ở các Sông Cầu, Sông Lô, Sông Thái Bình lên cao hơn bao giờ hết. Trận lũ năm 1971 đã gây vỡ đê ở ba địa
điễm, làm thiệt mạng 100000 nguời, úng ngập 250000 ha và hơn 2,7 triệu
người bị thiệt hại. Môt trận lũ lớn khác vào tháng 8 năm 1945 gây vỡ
đê tại 79 điễm, gây ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312000 ha, ảnh hưởng
tới cuộc sống của 4 triệu người. Gần đây lũ lụt kèm theo gió to hơn
100 km/giờ do bão Frankie gây nên vào ngày 24 tháng 7 năm 1996 làm 100 người
bị thiệt mạng, 194000 căn nhà bị hư hại
và hơn 177,000 ha bị úng ngập.
Ngoài
nguyên nhân chính là các trận mưa bão ở miền thượng lưu cũng như ở đồng
bằng, còn có nhiều lý do thường được nhắc đến như nạn phá rừng, hệ thống đê đập và hệ
thống thoát nước.
Aûnh hưởng của nạn phá rừng đối với lũ lụt đã
và đang được tranh luận trên khắp thế giới. Theo Cơ quan Lương Nông của
Liên Hiêp Quốc (FAO), mức độ phá rừng cao nhất xảy ra ở Á Châu, từ
9.5% trong thập niên 1960 đến 11% trong thập niên 1980. Cũng như nhiều nơi
khác trong nước, rừng ở các tỉnh miền Bắc đang bị tàn phá một cách
nghiêm trọng. So với thập niên 1940, hiện nay diện tích rừng chỉ còn khoảng
30 phần trăm. Các cuộc nghiên cứu
và điều tra ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nơi khác trên thế giới đã chứng
minh rằng nguyên nhân hàng đầu của lũ lụt là có quá nhiều mưa xảy ra
trong một thời gian ngắn ngủi, và việc phá rừng có thể ảnh hưởng
quan trọng đối với lũ lụt trong các lưu vực hạn hẹp như ở miền Bắc
và miền Trung. Cây cối có khả năng giử nước cũng như giảm thiểu việc
đất đai sụt lở. Lượng nước lũ ở một vùng có nhiều cây cối sẻ
ít hơn lượng nước lũ từ một vùng trơ trọi. Vì thế nạn phá rừng
có thể gia tăng mực nước ở các vùng hạ lưu.
Một hệ thống đê sông và đê biển đã được xây đắp
để ngăn bão lụt ở đồng bằng Sông Hồng. Tổng số chiều dài của đê
sông là 3000 km, và đê biển hơn 1500 km. Chiều cao trung bình của đê sông
từ 6-8 m, có nơi lên đến 11m. Tuy nhiên hệ thống đê được xây dựng đã
lâu đời trên nền đất yếu, đất đấp đê cũng lấy từ địa phương
và không đồng nhất, nhiều nơi bị hư hại vì thiếu tu bổ. Nhiều kè, cống
bị hỏng, cần được sửa chửa. Dọc theo đê còn có nhiều ao hồ làm nước
lũ khó thoát. Vì vậy đê có thể bị vỡ bất cứ lúc nào trong mùa lũ lớn. Hiện nay, đê biển còn thấp và yếu
và chỉ chịu được các cơn bão nhỏ. Hàng năm, vỡ đê thường xuyên xảy
ra, gây tổn thất đến sinh mạng và tài sản của dân cư các vùng ven biển.
Ngoài hệ thống đê,
còn có các đập thủy điện và hồ chứa nước lớn ở vùng thượng lưu
để giảm thiểu lũ lụt ở vùng đồng bằng. Đập Hoà Bình trên Sông Đà
và đập Thác Ba trên Sông Chảy đã được xây để làm thủy điện cũng
như làm giảm bớt mức độ nước
lũ. Đập Hoà Bình được ước tính có thể giảm đĩnh lũ năm 1971 tại Hà
Nội chừng 1,5 m. Ngoài ra còn có chương
trình xây thêm hai đập Sơn La trên Sông Đà và đập Đại Thi trên Sông Gấm.
Nhưng các đập này giữ nước lũ ở mức độ cao trong nhiều ngày, có thể
đe dọa tới hệ thống đê. Hai đập Sơn La và Hòa Bình ở vùng thượng
lưu Sông Đà là vùng có động đất thường xuyên và mạnh nhất nước
ta. Nếu có chấn động mạnh sẽ gây vỡ đập dây chuyền, dẫn tới thảm
họa khủng khiếp cho Hà Nội và các trung tâm dân cư vùng đồng bằng Sông
Hồng.
Vì các đồng ruộng thấp nên máy bơm nước thường
được dùng để làm vơi nước lũ. Đa số máy bơm quá cũ kỷ nên nước
lũ khó thoát kịp, kéo dài thời gian của lũ lụt. Các ao hồ, mương lạch
bị bồi lấp làm gia tăng tác hại của lũ lụt. Hàng năm, ít nhất có đến
15 phần trăm các đồng ruộng bị ngập úng vì lũ lụt.
Nói tóm lại nguyên
nhân chính của lũ lụt ở Sông Hồng nói riêng và miền Bắc nói chung là
những trận mưa lớn ở thượng lưu và vùng đồng bằng. Các nguyên nhân
khác như nạn phá rừng chỉ có thể làm lũ lụt trầm trọng hơn mà thội.
Những trận mưa lớn do các cơn bão biển Đông và gió mùa Tây Nam gây nên.
Từ tháng 7 năm 2001, chúng tôi đã thành lập một trang Web tên http://www.vnbaolut.com để cung cấp miễn phí
các dự báo bão biển và gió mùa. Hàng ngày trang Web VNBAOLUT.COM cho biết thời tiết trước 48
tiếng đồng hồ ở 60 tỉnh thành từ Lạng Sơn đến Cà Mâu. Các dự báo
được cập nhật bốn lần trong ngày (1 giờ, 7 giờ, 13 giờ và 19 giờ)
và có thể tự động gởi qua e-mail. Một mô hình tối tân và chính xác nhất
hiện nay, mô hình MM5, được dùng để làm các dự báo. Ngoài ra trang Web VNBAOLUT.COM còn cung cấp ảnh vệ tinh và
tin tức thời tiết mới nhất. Tất cả các dịch vụ nói trên đều miển
phí. Công việc làm các dự báo hoàn toàn thiện nguyện và vô vị lợi.
Chúng tôi chỉ mong được giúp đở phần nào đồng bào giảm thiểu được
tổn thất về sinh mạng cũng như tài sản do bão lụt gây nên.
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/lulut_songHong.htm