- Nụ
cười bằng mười thang thuốc
- Trần
Thuyên
Nếu
không xét đến sắc thái và sự khác biệt, thì tiếng cười có thể được
mã hóa ngôn ngữ thành một loạt các âm tiết đều đặn kiểu như: “ha
ha”, “hô hô”, “hê hê”, “hi hi”, v.v... Những
âm tiết này là một phần trong vốn từ vựng phổ quát của loài người
- vốn luôn được tất cả các dân tộc trong mọi nền văn hóa đa dạng
trên thế giới nhận biết được. Như vậy, tiếng cười chính là loại
hình “nói bằng các thứ tiếng” mà loài người có được do sự đáp
ứng vô thức trước những ám hiệu xã hội và ngôn ngữ.
Bằng cách này hay cách khác, chúng ta cười
mọi lúc, mọi nơi, nhưng không ý thức được rằng tại sao chúng ta lại
làm như thế. Nhiều người cho rằng tiếng cười là sự đáp ứng đơn giản
trước những phương tiện gây hưng phấn cho ta. Nhưng các chuyên gia nghiên
cứu lại khẳng định rầng tiếng cười là ngôn ngữ xã hội liên kết
con người với nhau. Đó là loại “ngôn ngữ ẩn” mà mọi người đều
có thể dùng nó để “nói chuyện” với nhau. Đó cũng là một thái độ
mang tính bản năng, được lập trình bởi các gene.
HÃY
MỜI NGƯỜI QUEN CƯỜI THỬ XEM!
Một
nhóm chuyên gia của Viện Nghiên cứu Tâm lý học Mỹ đã tiến hành khảo
sát 1.200 đối tượng (gồm người nói và người nghe) cười tự phát
trong môi trường tự nhiên của họ. Thật bất ngờ: Sau khi người nói
nói những câu bông đùa, thì 50% người nói lại... cười trước khi người
nghe cười! Nhóm nghiên cứu đã rút ra kết luận: Tiếng cười thường xảy
ra gấp 30 lần trong những hoàn cảnh xã hội hơn là trong hoàn cảnh ở một
mình. Chúng ta cảm thấy hạnh phúc vì tiếng cười là “tín hiệu” mà
chúng ta gửi đến người khác. Nhưng tiếng cười sẽ biến mất khi bên cạnh
chúng ta không có sự hiện diện của người nghe. Còn nữa, thật khó khăn
khi điều khiển tiếng cười một cách có ý thức. Ví dụ, bạn hãy mời
người quen của mình cười thử xem. Rất khó khăn, hoặc giả sứ người
ấy có thể cười được đi nữa, thì cũng mất vài giây để cố gắng tạo
nên tiếng cười. Điều này có nghĩa rằng tự bản thân ta không thể làm
cho các chức năng của não bộ hoạt động biểu lộ cảm xúc theo ý chúng
ta!
VÔ
ĐỊCH CƯỜI - PHÁI NAM HAY PHÁI NỮ?
Theo
nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Deborah Tannen, những khác biệt giới tính về
tiếng cười có thể rất lớn. Và trong 1.200 đối tượng nghiên cứu đã
nói ở trên của Viện Tâm lý học Mỹ, nữ giới cười nhiều hơn nam giới
gấp 2,5 lần trong những cuộc đối thoại bao gồm cả hai giới. Điều này
cũng có nghĩa là nữ có khuynh hướng cười nhiều nhất, trong khi nam có
khuynh hướng gây cười nhiều nhất. Xuyên qua các nền văn hóa, nam giới dường
như là người chủ động gây nên tiếng cười hài hước. Và khuôn mẫu
giới tính của tiếng cười cũng giải thích lý do người có khiếu hài hước
là nam giới luôn luôn nhiều hơn nữ giới.
Vậy
thì tiếng cười phải chăng là yếu tố để 2 phái gặp gỡ, hòa hợp và
kết đôi? Trong một cuộc khảo sát 3.745 tờ quảng cáo ở Mỹ từ năm
1996 đến năm 2001, người ta tổng kết có 62% giới nữ nở nụ cười
trong các tờ quảng cáo đó. Và qua cuộc khảo sát đó, người ta nhận thấy
phụ nữ có khuynh hướng đi tìm sự hài hước; trong khi đàn ông lại có
khuynh hướng ban tặng sự hài hước. Rõ ràng, phụ nữ muốn “một nửa của mình” là người có bộ
óc hài hước; trong khi đàn ông lại tỏ ra nhiệt tình thuận theo sự đòi
hỏi ấy trong khi đi tìm “một nửa vầng trăng” cho đời mình. Hai
chuyên gia tâm lý Karl Grammar và Irenaus Eibl-Eiebesfeldt đã nghiên cứu các cuộc
đối thoại tự nhiên giữa 6 cặp nam nữ người Đức mới gặp nhau lần
đầu. Hai chuyên gia nhận thấy người phụ nữ nào càng cười lớn trong
suốt buổi gặp gỡ này, thì sự quan tâm của cô đối với người đàn
ông mà cô đang trò chuyện càng nhiều hơn. Cũng vậy, người đàn ông lại
càng để ý đến người phụ nữ nào cười một cách thoải mái khi nói
chuyện với mình! Như vậy, tiếng cười của người phụ nữ (chứ không
phải của người đàn ông) là dấu hiệu quan trọng của một mối tương
quan tốt đẹp. Dù phái nam có cười hay không, thì điều quan trọng vẫn là
phái nữ có đón nhận được dấu hiệu hài hước ấy không.
Từ châu Á đến châu Âu, từ châu Mỹ đến
châu Phi, từ các đảo quốc châu Đại Dương đến các vùng cực lạnh
giá, tiếng cười vẫn luôn là một hành vi hỷ xả. Và phụ nữ vẫn sử
dụng tiếng cười nhiều hơn nam giới, như là dấu hiệu thể hiện sự mến
mộ, yêu quý, hay đồng ý, phục tùng đối với người mà mình chú ý. Tuy
thế, các khuôn mẫu giới tính về tiếng cười vẫn có thể uyển chuyển
thay đổi thích hợp một cách tiềm thức đối với hoàn cảnh xã hội.
CÓ
HAY KHÔNG “VIRUS CƯỜI”?
Ngày
30 tháng 1 năm 1962, tại một trường nội trú cho nữ sinh ở Tanzania (châu
Phi), có 3 cô nữ sinh cứ cười vang suốt ngày suốt đêm mà không sao nín
cười được. Tiếp đó, triệu chứng này đã nhanh chóng lây lan sang 95 nữ
sinh khác của trường, khiến trường phải quyết định đóng cửa vào
ngày 18/3/1962. Những nữ sinh bị trường đuổi học về nhà chính là tác
nhân làm bùng nổ tràn lan “virus cười” thành... đại dịch cười! Trận
dịch cười này đã lan đi như lửa rừng khắp các trường học miền
Trung châu Phi, làm khốn khổ cả 1.000 người, và phải mất 2 năm rưỡi trời
mới chấm dứt được!
Như
thế, tiếng cười mang tính lây lan. Cả khi tiếng cười được điều khiển
với một chút ý thức, thí nó cũng mang tính tự phát và tương đối khó
kiểm soát. Khả năng không thể cưỡng lại được hành vi cười trước
tiếng cưới của người khác có nguồn gốc nơi cơ cấu thần kinh hình
thành tiếng cười. Việc tiếng cười lây lan thành đại dịch cười khiến
các nhà khoa học chú ý nghiên cứu và đưa ra một lời giải đáp đầy thú
vị là cơ thể người có một hệ thống “ăng-ten” dò nghe tiếng cười-
một loại “công tắc thần kinh” tại não bộ để đáp ứng lại tiếng
cười một cách đặc biệt (cũng giống như một cái ngáp lây lan có thể
bao gồm tiến trình tương tự trong lĩnh vực thị giác). Một khi đã “bắt
sóng”, hệ thống dò nghe tiếng cười sẽ làm khởi động hệ thống phát
tiếng cười. Cứ thế, tiếng cười lây lan sang nhiều người, cứ như
người ta bị... “nhiễm virus” cười!
Mặt
khác, suốt quá trình nói, đòi hỏi lời nói phải có ưu thế hơn tiếng
cười. Chẳng hạn, người ta có thể nói “Anh làm gì đó?... ha... ha...”,
nhưng hiếm khi người ta nói “Anh làm ...ha...ha... gì đó?”. Đây là một
minh chứng về “ảnh hưởng của dấu chấm câu đối với tiếng cười”
- mà trong đó khuynh hướng cười gần như là một hiện tượng đặc biệt
giữa những khoảng trống biểu hiện dấu chấm câu khi ngưng nói. Sự xuất
hiện tiếng cười ở cuối câu nói đã nhấn mạnh rằng tiến trình được
đặt nền tảng trên hệ thần kinh chi phối việc xếp đặt tiếng cười
trong lời nói; và các vùng não bộ khác cũng tham gia vào cách biểu lộ lời
nói hướng đến sự nhận thức và sự thanh hóa tiếng cười chứa đầy
cảm xúc hơn.
TIẾNG
CƯỜI: THẦN DƯỢC CHỮA BÁCH BỆNH!
Tiếng
cười tạo sự đoàn viên cho con người, đem con người lại gần nhau hơn.
Và từ sự nâng đỡ xã hội này, tiếng cười có thể cải thiện sức khỏe
tinh thần và thể lực con người. Tiếng cười là một hành vi năng động,
làm tăng nhịp tim và huyết áp. Hiện nay, các ảnh hưởng sinh lý và lợi
ích chữa trị của tiếng cười đang được các chuyên gia tâm lý và y
khoa tích cực nghiên cứu và ứng dụng. Mới đây, nhà khoa học Lennart Levi
thuộc Viện Nghiên cứu Karolinska tại Stockholm (Thụy Điển) đã công bố kết
quả nghiên cứu của mình, rằng việc xem hài kịch sẽ khiến cho hệ miễn
nhiễm trong cơ thể hoạt động mạnh, làm tăng lượng catecholamine - một
chất đo lường sự hoạt động và sự căng thẳng thần kinh - trong nước
tiểu. Việc bài tiết bớt chất này sẽ làm giảm thiểu tình trạng căng
thẳng và những hormone liên quan -chính là cơ chế mà qua đó, tiếng cười
được xem như làm tăng chức năng miễn nhiễm bệnh của cơ thể.
Bên
cạnh đó, giảm cơn đau hiện đang là một trong những liệu pháp ứng dụng
tiếng cười đầy hứa hẹn. Qua thử nghiệm, Rosemary Cogan - giáo sư tâm
lý của Trường Đại học Công nghệ Texas (Mỹ) - đã khám phá ra rằng: Những
đối tượng thử nghiệm luôn cười khi xem các phim hài hoặc trải qua một
cuộc thư giãn vui vẻ - thường có khả năng chịu đựng hơn những đối
tượng khác. Tính hài hước có thể giúp làm dịu cơn đau mãnh liệt của
bệnh nhân. Chuyên gia James Rotton thuộc Trường Đại học Harvard (Mỹ) cho
biết rằng các bệnh nhân phẫu thuật chỉnh hình khi thường xem phim hài -
sẽ ít có nhu cầu sử dụng thuốc aspirin và thuốc an thần - hơn là những
bệnh nhân thường xem phim tình cảm. Tính hài hước cũng có thể giúp con
người đương đầu tốt hơn với các stress. Giáo sư phụ tá tâm lý
Michelle Newman thuộc Trường Đại học Colombia đã tiến hành một cuộc
nghiên cứu. Ông cho các đối tượng thí nghiệm xem một cuốn phim về 3
tai nạn rùng rợn; sau đó yêu cầu họ phải thuật lại cuốn phim ấy bằng
lối kể hài hước hoặc nghiêm trọng. Những đối tượng thuật lại theo
kiểu hài hước - có biểu hiện căng thẳng và tác động tiêu cực ở mức
thấp nhất. Và trong những cuộc nghiên cứu này, nổi lên một vấn đề là
không một đối tượng thí nghiệm nào tách biệt những tác động của tiếng
cười khỏi những tác động hài hước. Những tác động của tiếng cười
hay sự hài hước có thể đến từ những hoàn cảnh vui chơi, thư giãn vốn
gắn liền với những hành vi này. Và không ai đánh giá tính duy nhất của
tiếng cười bằng cách làm tương phản tiếng cười với những âm thanh
khác như la hét chẳng hạn.
Cuối
cùng, tiếng cười giòn tan và cá tính vui tươi có làm cuộc đời bạn kéo
dài thêm nhiều tuổi xuân không? Bạn cứ thử cười tươi và lạc quan
trong cuộc sống hàng ngày xem sao, rồi bạn sẽ thấy kết quả!
- (Theo Psychology Today)
- (Báo Giác Ngộ, số Xuân 2002)
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/nucuoi2.htm