Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội: Dựng tượng ai là phù hợp?
Nguyên Quang
Một nhân cách lớn, một nhà tu hành suốt đời
phụng sự đạo pháp và dân tộc không mệt mỏi như Sư Vạn Hạnh cần phải có
một vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc hôm nay và cho thế hệ trẻ mai
sau noi gương học tập
Tôi có đọc bài viết của Nguyễn Hàng Tình trên Tuổi
trẻ online ra ngày 29.6.2009, nói về việc nhà điêu khắc Phạm Văn
Hạng có kiến nghị bằng văn thư gửi lên cấp lãnh đạo Hà Nội cùng Hội Khoa
học lịch sử Việt Nam với ý nguyện tặng tác phẩm điêu khắc về Alexandre
de Rhodes (15.3.1591- 5.11.1660) tại Thủ đô Hà Nội.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở chỗ là ông Hạng lại mong
muốn dựng tượng Alexandre de Rhodes vào thời điểm nhà nước tổ chức Đại
lễ kỉ niệm một ngàn năm Thăng Long- Hà Nội. Không biết các vị trong Hội
Khoa học lịch sử Việt Nam sẽ nghĩ gì, riêng cá nhân tôi thật sự bị sốc.
Vì sao?
Nói cho cùng, tôi cũng là người Việt Nam, mang trong
mình dòng máu Lạc Hồng, nên phải có lòng tự hào về sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của các bậc tiền nhân. Đặt biệt, tôi rất lấy làm tự hào cho
dân tộc ta, tổ tiên ta trong thời đại nhà hậu Lý, tức vua Lý Thái Tổ năm
1010, triều đại được cả dân tộc xem là vàng son và chói lọi nhất.
Vì vậy, nhà nước Việt Nam ta hiện nay mới tổ chức sự
kiện trọng đại vào năm 2010, Đại lễ kỉ niệm một ngàn năm Thăng Long- Hà
Nội, nhằm ôn lại thời kì hào hùng vẻ vang nhất một thời của dân tộc. Ấy
thế mà không hiểu vì nguyên nhân gì, ông Hạng lại có văn thư hẳn hoi
kiến nghị lên Hà Nội để được dựng tượng Alexandre de Rhodes vào dịp Đại
lễ kỉ niệm một ngàn năm Thăng Long- Hà Nội, một nhân vật hậu sinh cách
thời Lý Thái Tổ hơn nửa thiên niên kỉ chẳng ăn nhập gì với sự kiện dời
đô của Lý Thái Tổ?
Sự thật, sách sử cùng nhiều công trình nghiên cứu khoa
học của học giả trong và ngoài nước cũng đã chứng minh Alexandre de
Rhodes là một nhân vật đã khai mào cho Chủ nghĩa thực dân Pháp sang xâm
lược nước ta, tạo ra đau thương tang tóc suốt hàng trăm năm cho dân tộc.
Như trong cuốn Hành trình và truyền giáo có đoạn do chính
Alexandre de Rhodes viết:
“J’ai cru que la France, étant le plus pieux
royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la
conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et
particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui
fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de Rome
à ce dessein le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les
pieds du Pape”.
“Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế
giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ (plusieurs soldats)
đi chinh phục toàn cõi Đông phương (la conquête de tout l’Orient), đưa
về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng
tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma
ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo hoàng” (Dẫn
theo Bùi Kha, báo Hồn Việt, TP HCM, Số 17, tháng 11.2008, mục Trao Đổi -
Ý Kiến) .
Chưa hết, trong ‘Phép giảng tám ngày’, chính
Alexandre de Rhodes cũng có thái độ kì thị Phật giáo và phỉ bang đức
Phật Thích Ca thậm tệ: “Như thể có chém cây nào đục cho ngã, các
cành ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay
dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca
mà ra, có ngã với thì đã tỏ.” (Dẫn theo Bùi Kha, báo Hồn Việt, TP
HCM, Số 17, tháng 11.2008, mục Trao Đổi - Ý Kiến)
Việc đi truyền đạo là một việc làm cao cả, thể hiện ý
chí và nguyện vọng chính đáng đời sống tinh thần và đạo đức của con
người, nhưng Alexandre de Rhodes lại mong muốn nước Pháp cung cấp cho
ông ta nhiều chiến sĩ để đi chinh phục toàn cõi Đông phương để làm gì(!)
Rồi lại buông ra những lời phỉ báng đức Phật Thích Ca, gọi Phật Thích Ca
là ‘thằng’, ngôn ngữ của một nhà truyền giáo chân chính không thể thiếu
văn hóa như thế đối với một dân tộc có bề dày về văn hóa Phật giáo
được(!), vì phỉ báng đức Phật không khác gì ông ta đã phỉ báng cả dân
tộc Việt.
Tôi nói điều này không phải là mới, vì trong lịch sử
dựng nước và bảo vệ tổ quốc, dấu ấn các vị thiền sư, các nhà tu hành
Phật giáo luôn gắn bó với dân tộc trong những lúc nguy khốn nhất, có
giai đoạn Phât giáo và dân tộc như là một khối thống nhất, như thời Lý
Thái Tổ. Vì vậy, trong Đại hội Phật giáo kì II, năm 1987, nhằm ôn lại
truyền thống yêu nước của Phật giáo với dân tộc, cố Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh đã nhấn mạnh: “Trong gần 2000 năm đạo Phật hòa nhập và gắn
bó với dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước… Hơn 40
năm trong công cuộc cách mạng giành độc lập tự do thống nhất cho tổ quốc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đông đảo Tăng Ni và tín đồ theo đạo Phật đã
có nhiều đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung của đất nước, tô đậm
thêm truyền thống yêu nước, gắn bó dân tộc, với chủ nghĩa xã hội của đạo
Phật Việt Nam.” (Thư cụ Nguyễn Văn Linh, kỉ yếu, nhiệm kì II,
GHPGVN, số 28-29/10- 1987)
Ở hai đoạn văn trên do chính Alexandre de Rhodes viết
ra, tôi nghĩ ông ta đến Việt Nam không đơn thuần chỉ truyền đạo mà động
cơ chính là muốn biến dân tộc Việt Nam thành một nước được cai trị bởi
chủ nghĩa thực dân Pháp. Nói trắng ra, ông ta muốn dân tộc Việt Nam trở
lại thời kì tiếp tục làm nô lệ cho một chủ nghĩa mới, đó là chủ nghĩa
thực dân. Và sự thật là cả dân tộc chúng ta phải gánh chịu hậu quả vào
ngày 1.9.1858 khi lính Pháp đổ bộ sang xâm chiếm nước ta, mở đầu cho
giai đoạn đen tối tiếp theo của chủ nghĩa thực dân cai trị nhân dân ta,
tức chỉ sau thời Alexandre de Rhodes khoảng hơn hai thế kỉ.
Rõ ràng, điều này là đi ngược lại với mong muốn của cả
dân tộc và các bậc tiền nhân đã dày công tạo dựng nền độc lập nước nhà
như: Ngô Quyền, Sư Vạn Hạnh, Lý Thái Tổ, Trần Thủ Độ… Nếu các vị tiền
bối này sống lại , tôi nghĩ, họ cũng sẽ hi sinh xương máu để đuổi chủ
nghĩa thực dân như họ đã từng đuổi giặc Tàu thôi.
Vì vậy, việc ông Hạng mong muốn được dựng tượng
Alexandre de Rhodes trong Đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà
Nội là đi ngược lại với truyền thống yêu nước và nhân đạo của dân tộc
ta. Thiết nghĩ, các cấp chính quyền Hà Nội nên xem xét kĩ lại vấn đề
này, vì đây là sự kiện liên quan đến truyền thống văn hóa lâu đời của
suốt chiều dài lịch sử đấu tranh và bảo vệ dân tộc.
Ngược lại, nhân Đại lễ kỉ niệm ngàn năm Thăng Long- Hà
Nội, chúng ta nên có cái nhìn lịch sử khách quan hơn, ai có công thì
được vinh danh. Nhà nước chúng ta và lịch sử dân tộc cũng đã ghi nhận Sư
Vạn Hạnh là một vị đã có công rất lớn trong việc phò Lý Công Uẩn lên
ngôi, mở ra triều nhà hậu Lý vàng son rực rỡ về mọi mặt của dân tộc. Như
lời của Giáo sư Nguyễn Khuê nhận định: “Ở vào kỉ nguyên này, những
người trí thức đầu tiên của nước ta phần nhiều là những nhà Sư. Họ không
dừng lại ở cương vị một người tu hành thoát tục, mà đã tham gia vào
những hoạt đông nội chính và ngoại giao để củng cố nền độc lập mới giành
được. Các vị Khuông Việt, Pháp Thuận, được nhà vua trọng dụng cho tham
dự triều chính và tiếp các sứ giả nhà Tống. Còn Sư Vạn Hạnh được vua Lê
Đại Hành hỏi ý kiến mỗi khi xuất quân đánh Tống. Bước sang thời Lý, tầng
lớp trí thức là sư tăng vẫn còn giữ vị trí quan trọng trong công cuộc
dựng nước và giữ nước. Sư Vạn Hạnh là người có vai trò lớn trong việc
thành lập vương triều Lý.” ( Nguyễn Khuê, Người trí thức Việt Nam
qua các chặng đường lịch sử, NXB Tổng hợp, 1987, tr.14).
Và với cố Giáo sư Minh Chi thì: “Năm Cảnh Thụy
thứ 2 (1009), Ngọa Triều mất, con còn nhỏ, Chi Hầu Đào Cam Mộc cùng với
các quan trong triều nghe theo lời Sư Vạn Hạnh, đưa Lý Công Uẩn lên làm
vua, khai sáng ra triều nhà Lý nước ta, một triều đại ở ngôi lâu nhất
trong lịch sử, 216 năm.” (Minh Chi, Lịch sử Phật giáo Việt Nam,
Trường CCPHVN, 1989, tr. 38). Trong thời vua Lý Nhân Tông, nhà vua cũng
đã nêu bật tinh thần yêu nước của Vạn Hạnh: “Vạn Hạnh dung tam tế/
Chân phù cổ sấm cơ/ Hương quan danh Cổ pháp/ Trụ tích trấn vương kì.”
Ngay cả giới trí thức Nho giáo sau này là Ngô Thời Sĩ
cũng phải thừa nhận trong Việt Sử Tiêu Án: “Vạn Hạnh có kiến thức
cao siêu, thần toán, biết trước mọi việc cũng là tay xuất sắc trong giới
Thiền.”
Hay khi nói đến sự thịnh trị lâu bền của nhà Lý, cũng
chính Ngô Thời Sĩ ghi rõ trong Việt Sử Tiêu Án: “Xét nhà Lý có tám
vua nối nhau, 218 năm không có vua nào thất đức, nhiều vua hiền, lâu năm
thái bình, từ tiền cổ đến khi ấy chưa có triều nào hơn cả.”
Từ việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi và lấy chính pháp trị
dân của Vạn Hạnh thời nhà Lý, cho thấy Vạn Hạnh không chỉ là một thiền
sư nhập thế thoát tục mà còn là một bậc có trí tuệ siêu việt biết nhìn
xa trông rộng khi đưa ra chiến lược dời đô giúp cho cho nhà Lý và Hà Nội
ngày nay vẫn là một trung tâm đầu não về văn hóa, chính trị, kinh tế…
vào bậc nhất của cả nước.
Chính vì vậy, để tưởng nhớ công đức sâu dày của thiền
sư đối dân tộc, ngay tại quận 10, TPHCM, cũng như nhiều nơi khác trên cả
nước, nhà nước Việt Nam đã luôn dành riêng một con đường lấy tên là Sư
Vạn Hạnh.
Nói tóm lại, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền
thống yêu nước nồng nàn, Vạn Hạnh là một thiền sư đại biểu cho truyền
thống ấy, dù đã thoát tục nhưng vẫn nhập thế để giúp đời trong những lúc
nguy khốn nhất, nhưng công thành thì thân thoái, không tranh quyền đoạt
vị, xem danh lợi như bèo nổi mây trôi, làm chính sự nhưng không tham gia
chính quyền nên không có thế lực chính trị nào đằng sau cả, ngay cả cho
đến lúc lúc cuối đời, bản chất của một thiền sư tự tại vô ngã nơi Ngài
vẫn không thay đổi: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô/ Vạn mộc xuân
vinh thu hựu khô/ Nhậm vận thịnh suy vô bố úy/ Thịnh suy như lộ thảo đầu
phô.” Hoặc: “Ngã bất dĩ sở di trụ, bất y vô nhi trụ.”
Một nhân cách lớn, một nhà tu hành suốt đời phụng sự
đạo pháp và dân tộc không mệt mỏi như Sư Vạn Hạnh cần phải có một vị trí
xứng đáng trong lòng dân tộc hôm nay và cho thế hệ trẻ mai sau noi gương
học tập, nên tôi thiết nghĩ, để cho Đại lễ kỉ niệm một ngàn năm Thăng
Long- Hà Nội đầy đủ ý nghĩa hơn, thì chúng ta nên dựng tượng Sư Vạn Hạnh,
vừa phù hợp với tính khách quan của lịch sử vừa phù hợp với chủ nghĩa
yêu nước của lịch sử đấu tranh và bảo vệ dân tộc, vì ai cũng thừa hiểu:
“Chủ nghĩa yêu nước là giá trị đứng đầu các giá trị tinh thần Việt
Nam.”( Trần Văn Giàu, Triết học và tư tưởng, NXB TPHCM, 1988, tr.
482).
Theo: Tượng sư Vạn Hạnh tại chùa Tiêu Sơn
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/thanglong_dungtuongai.htm