- Kinh Bốn Niệm Xứ
- HT. Thích Thiện Châu
I- Giới Thiệu
Bản kinh " Bốn Niệm Xứ "
nầy rút ra từ Tương Ưng Bộ (Samyuttanikaya), tập V, trang 141. Tu thư Phật
học Vạn Hạnh, năm 1982 đã ấn hành trọn bộ 5 quyển.
So với các kinh cũng nói về Bốn
niệm xứ (Trường bộ kinh số 22, Trung bộ kinh số 10) thì bản kinh nầy
ngắn và gọn hơn. Giới thiệu bản kinh nầy với đọc giả Hương Sen, chúng
tôi muốn nói lên một sự thật: Bốn-niệm-xứ hoặc được trình bày
chung trong 37 pháp trợ đạo (Bodhi pakkhiya dhamma) hay 8 chánh đạo
(Ariya-magga), hoặc được trình bày riêng, như trong bản kinh nầy, là phương
pháp tu dưỡng vừa căn bản vừa phổ biến -- căn bản vì do chính Phật tổ
Thích Ca thuyết minh, phổ biến vì được tất cả bộ phái từ Thượng tọa
bộ (Theravada) cho đến Thiền tông (Ch'an, Zen); trong khi đó phương pháp niệm
A-Di-Đà cầu sanh Cực Lạc chỉ được một số thuộc Phật giáp phát triển
ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật bản thực hành, phương pháp niệm Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa chỉ được một số thuộc tông phái Nhật liên (Nichiren) ở
Nhật bản thực hành, phương pháp niệm thần chú (Mantra) Um-mani-padme-hum chỉ
được một số theo Mật tông ở Tây tạng hay Bắc tông thực hành.
Phương pháp Bốn niệm xứ nầy
được Phật tổ thuyết minh trong bốn điều quán niệm: 1) Quán niệm về
thân thể, 2) Quán niệm về cảm thọ, 3) Quán niệm về tâm ý, và 4) Quán
niệm về các pháp.
Phương pháp nầy giúp người tu thiền
đạt được trí tuệ , thấy rõ sự thật: 1) nơi thân là "bất tịnh",
2) cảm thọ là " Khổ ", 3) tâm là " Vô thường ", và 4)
pháp là "Vô ngã ", và do đó giải thoát tự tại đối với cuộc
đời.
Phật tổ xem phương pháp Bốn niệm
xứ nầy như là "con đường duy nhất khiến các loài hữu tình được
thanh tịnh , chế ngự sầu bi, tiên trừ khổ ưu, thông ngộ chơn lý , chứng
đạt Niết bàn."
Một khi chính Phật tổ đã minh
xác đây là "con đường duy nhất đưa đến Niết bàn" thì
Phật tử không cần mà cũng không nên phát minh con đường tắt dễ đi nào
khác nếu muốn giác ngộ, giải thoát như Phật tổ.
II- Chánh Kinh
Tôi nghe như vầy.
Một thời Thế tôn ở tại Vesali
[1] trong rừng Ambapali [2].
Tại đây, Thế tôn gọi các Tỳ
kheo: "Này các Tỳ kheo!"
- "Bạch Thế tôn", các Tỳ
kheo ấy đáp Thế tôn.
Rồi Thế tôn nói như sau:
- Này các Tỳ kheo, có con đường
[3] khiến các loài hữu tình được thanh tịnh, chế ngự sầu bi, tiêu trừ
khổ ưu, thông ngộ chân lý [5], chứng đạt Niết bàn [4]. Ấy là Bốn niệm
xứ (Satipatthana) [6].
Những gì là bốn?
Các Tỳ kheo, ở đây, Tỳ kheo quán
niệm [4] về thân thể [7], dũng mãnh, tỉnh giác, chánh niệm, điều phục
tham ưu trong đời.
Này các Tỳ kheo, con đường duy nhất
nầy khiến các loại hữu tình được thanh tịnh, chế ngự sầu bi, tiêu
diệt khổ ưu, thông ngộ chơn lý, chứng đạt Niết bàn. Ấy là bốn niệm
xứ.
Thế tôn thuyết giảng như vậy, các
Tỳ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế tôn dạy.
III- Chú Thích Sơ
Lược
[1]. Vesali: nay là tỉnh Besarh, ở
phía Bắc Ấn độ nhưng dân cư thưa thớt. Đại hội Phật giáo lần thứ
hai sau khi Phật viên tịch được tổ chức tại đây để xét lại những
điểm sai khác với giới luật.
[2]. Ambapali: một phụ nữ ăn chơi
sau được Phật hóa và cúng rừng xoài cho Giáo hội. Phật thuyết Kinh Bốn
Niệm xứ ở đó.
[3]. Con đường duy nhất
(Ekayano-magga): Đạo Phật nguyên thủy không hề chia ra Tiểu thừa, Đại thừa,
Tối thượng thừa. Chính Phật tuyên bố trong Kinh Chuyển Pháp Luân rằng
do không ngộ bốn chơn lý cao cả mà Phật mới tự nhận là đã thành Phật.
Vì thế con đường duy nhất ở đây
không có nghĩa cao thấp, so với các phương pháp tu dưỡng khác, mà là con
đường đúng đắn dẫn đến Niết bàn. Về sau vì có sự cạnh tranh giữa
các bộ phái nên những danh từ "Tiểu thừa, Đại thừa, Tối thượng
thừa" mới được ra đời và áp dụng cho tới ngày nay.
[4]. Theo Kinh Đại Niệm Xứ (Maha
Satipatthana) thì nếu tu dưỡng đúng theo phương pháp Bốn niệm xứ trong thời
gian 7 năm hoặc 7 tháng người tu thiền có thể ngay trong hiện tại: 1)
thành tựu chánh trí, 2) chứng quả Bất Hoàn (A-na-hàm - Anagami), và sau khi
chết sanh về Tịnh độ (Suddhavasa) và ở đó thì chứng được Niết bàn.
[5]. Thông ngộ Chơn lý ở đây chỉ
cho sự hiểu biết và thực hành đúng theo chánh đạo.
[6]. Bốn niệm xứ (Satipatthana): Bốn
phương thức áp dụng chánh niệm hay quán niệm.
[7]. Quán niệm về thân thể hay
thân trên thân nghĩa là quán niệm: hơi thở, động tác, thành phần vật
chất nơi thân, phân tích bốn yếu tố (tứ đại) nơi thân, phân tích bốn
yếu tố (tứ đại) nơi thân, quán niệm thân thể nơi bãi tha ma.
[8]. Quán niệm về cảm thọ hay thọ
trên các cảm thọ nghĩa là quán niệm cảm thọ vui, không vui, trung tính nơi
thân và tâm.
[9]. Quán niệm về tâm ý hay tâm
trên tâm nghĩa là quán niệm nơi tâm có hay không có Tham sân si...
[10]. Quán niệm về các pháp hay đối
tượng tâm ý nghĩa là quán niệm sự có mặt hay không có mặt của 5 triền
cái: ái dục, sân hận, thụy miên, trạo hối, nghi, và của 7 giác chi: niệm,
trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả, hay quán niệm theo bốn chơn
lý cao cả.
Chân thành cám
ơn chị BY đã đánh máy vi tính, cư sĩ Bình Anson gởi tặng, ĐNPP,
2-2001