- XUẤT GIA HOẰNG PHẬT ĐẠO
Các giới tử,
Các vị có biết hiện tại chúng
ta đang ở đâu không? Các vị có nghĩ rằng chúng ta sắp làm gì không? Đây
không phải là một đại trai đàn làm chay, cũng không phải là nơi hội họp
thường lệ, mà đây là đại trai đàn Thiện Hòa và các vị đến đây để
lãnh thọ Giới pháp của Phật. Đó là một điều hết sức quan trọng đối
với đời xuất gia của các vị, mà cũng hết sức quan trọng đối với
Phật pháp.
Là một người xuất gia, không phải
ra khỏi nhà thế gian đến ở chùa là đủ. Nếu ra khỏi nhà thế gian đến
ở chùa, thì chỉ mới xuất được thế tục gia, nhưng còn hai điều quan
trọng khác là xuất phiền não gia và xuất tam giới gia chưa thành tựu
được. Khi chưa thành tựu hai điều sau này thì điều xuất gia trước không
có công đức và giá trị bao nhiêu! Bởi vì, có nhiều người dầu "đầu
tròn, áo vuông", nhưng họ là những người đến ở chùa làm công quả,
và nếu căn cứ theo hình thức thì những vị đó cũng có thể gọi là xuất
gia được, nhưng đó chỉ là xuất thế tục gia mà thôi. Cho nên, muốn xuất
phiền não gia, xuất tam giới gia thì phải thọ trì giới pháp của Phật.
Là Phật tử, dù lại gia hay xuất
gia, có hai điều cơ bản này mới thành một người Phật tử, đó là
chánh kiến và tịnh giới. Người tại gia thọ trì Tam quy–tin Phật, tin
Pháp, tin Tăng một cách đúng đắn, sâu sắc, bền vững, kiên cố thì họ
thành tựu được chánh kiến. Một người tại gia khi đã quy y Tam Bảo và
thọ trì ngũ giới, giữ gìn năm điều luật giới tại gia của Phật chế
là thành tựu được tịnh giới. Người tại gia thành tựu được chánh
kiến và tịnh giới thì mới gọi là đệ tử của Phật, còn nếu không
thành tựu, thì dầu xưng là Phật tử cũng chưa phải là Phật tử đúng
nghĩa.
Tại gia đã vậy thì xuất gia cũng
vậy, cũng phải có haì điều kiện cơ bản đó, là chánh kiến và tịnh
giới. Thành tựu chánh kiến thì người xuất gia, người tại gia đều y
như nhau, đều lấy Tam Bảo làm thầy; tôn thờ Phật, tôn thờ Pháp, tôn
thờ Tăng làm lý tưởng cao cả của cuộc đời mình; nhằm vào đó, hướng
vào đó làm mục đích để bước tới. Đó là thành tựu chánh kiến. Khi
đã thành tựu chánh kiến, họ phải thành tựu tịnh giới. Nếu không
thành tựu tịnh giới thì người xuất gia không thành người xuất gia. Giới
tại gia có 5 giới; giới xuất gia Sa-di có 10 giới, Tỳ-kheo có 250 giới, Tỳ-kheo-ni
có 348 giới. Đó là những pháp do Phật qui định cho người đệ tử của
Phật. Khi muốn làm đệ tử Phật trong hàng xuất gia, phải thành tựu giới
pháp tịnh giới thì mới trở thành được một người xuất gia đúng nghĩa.
Các vị hôm nay đã ở chùa nhiều
ngày, nhiều tháng, nhiều năm, tức đã thành tựu được xuất thế tục
gia. Và ngày mai các vị bước lên giới đàn để thọ trì giới pháp của
Phật, để mong thành tựu được xuất phiền não gia, xuất tam giới gia, bấy
giờ mới trọn vẹn chí nguyện xuất gia của mình. Cho nên từ giờ phút
này, giờ phút sắp đến đâỳ là giờ phút hết sức quan trọng đối với
đời xuất gia của các vị, mà cũng hết sức quan trọng đối với Phât
pháp. Nếu các vị không thọ giới pháp, tức là các vị không hoàn thành
được người xuất gia đệ tử Phật, không hoàn thành được một vị
Sa-di, không hoàn thành được một vị Tỳ-kheo. Tự mình không hoàn thành
Sa-di, Tỳ-kheo thì không thể gọi là xuất gia. Khi đã không trở thành người
xuất gia thì không thể đảm đương Phật pháp, hoằng dương Phật pháp, bấy
giờ Phật pháp cũng không hoàn thành được. Cho nên sự thọ giới này chẳng
những quan trọng đối với đời sống cá nhân của các vị, mà cũng là
quan trọng đối với Phật pháp. Như trong Luật, đức Phật đã dạy:
"Khi nào, ở đâu mà còn có 10 thầy Tỳ-kheo truyền thọ giới, hoặc
có 5 thầy cùng nhau truyền thọ giới pháp, thì bấy giờ Phật pháp tồn tại.
Tỳ-ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ". Hễ Tỳ-ni tạng còn đương
trụ, nghĩa là còn có người truyền giới và còn có người giữ giới, thì
tức nhiên giới luật còn; giới luật còn tức nhiên Phật pháp còn. Cho
nên, việc thọ giới là một việc hết sức quan trọng. Vì vậy, trong giờ
phút này, các vị nên xét lại tâm nguyện của mình, hãy phát một lòng hết
sức chí thành chí kính, xả bỏ tất cả, quên hết tất cả những gì
làm chướng ngại việc thọ giới, để
hướng vào việc thọ giới.
Tâm của các vị được như vậy
thì giới pháp, giới thể mới thành tựu trọn vẹn, viên mãn ở nơi các
vị. Nếu tâm các vị không được như thế, không chí thành chí kính,
không thấy đây là một điều quan trọng cho cá nhân xuất gia của mình
và cho Phật pháp, thì dầu các vị có ở trước Thập sư, có dạ, có thưa
thì không thể làm sao tròn được giới thể ở nơi các vị. Cho nên, trước
khi các vị đăng đàn lãnh thọ giới pháp, các vị hãy gạn lọc tâm tư,
xét lại lòng mình, phát một lòng tin hết sức dõng mãnh, tinh tấn đối với
giới pháp, các vị mới lãnh thọ viên mãn được.
Nhưng vì sao các vị phải lãnh thọ
giới pháp? Đức Phật dạy: “Giới luật của Phật có những công đức
hết sức lớn lao”. Trong Luật đức Phật đã nêu lên 10 điều ích lợi
để cho các đệ tử thấy rằng; các điều luật Phật chế không phải
là chế suông, không có ý nghĩa; mà trái lại nó rất có ý nghĩa, rất có
lợi ích cho những ai phát tâm muốn thọ trì. Mười điều đó là gì? Theo
Luật gọi là 10 cú nghĩa. Nghĩa là 10 điều ích lợi.
Điều ích lợi thứ nhất: Nhiếp
thủ ư Tăng. Có thọ trì giới luật mới được nhiếp thủ vào nơi Tăng
đoàn. Có thọ trì giới luật mới được Tăng đoàn của Phật nhiếp trì
cho. Nếu một người ở chùa chục năm, hai chục năm... mà không thọ giới
thì vẫn là người cư sĩ, hoặc thọ giới Sa-di vẫn là Sa-di, chứ không
thể gọi là Tỳ-kheo được Khi có thọ giới Tỳ-kheo mới nhiếp thủ vào
Tăng đoàn, mới nhập vào Tăng số để trở thành một trong ba ngôi Tam Bảo,
trở thành một vị chúng trung tôn. Cho nên giới pháp chính là cái để dắt
dẫn chúng ta đi vào với Tăng đoàn, đi vào với ngôi vị chúng trung tôn.
Thế nên, điều ích lợi của giới pháp là làm cho người xuất gia thọ
giới được nhiếp thủ ư Tăng.
Điều ích lợi thứ hai: Linh
Tăng hoan hỉ (Khiến Tăng hoan hỉ). Các điều giới của đức Phật
chế ra làm cho người thọ trì được hoan hỉ. Một người thọ giới,
người khác thọ giới, khi đã thọ giới Tỳ-kheo của Phật rồi, dầu người
thọ giới mới một năm, hai năm, ba năm, cho đến người thọ giới 80 năm
đi nữa, thì cũng đều có một Tăng thể giống như nhau. Cho nên mỗi lần
Bố-tát, ở giữa chúng Tăng gọi là Đại đức Tăng. Đại đức Tăng là
tiếng gọi toàn thể chung, chứ không phân biệt ông Tăng 70 hạ, 50 hạ, 40
hạ hay ông Tăng mới thọ giới. Dù người mới thọ giới cũng đều nằm
trong Đại đức Tăng, không phân biệt gì hết, bởi vì giới thể là một–250
giới là một đối với Tăng, 348 giới là một đối với Ni. Khi một người
đã thọ giới và giữ giới như vậy, tất nhiên ai thấy cũng vui mừng,
hoan hỉ. Như một người đi tu mà thấy người khác đi tu như mình thì lấy
làm hoan hỉ. Khi thọ giới rồi, cố gắng giữ giới, người này thấy người
kia giữ giới thanh tịnh, hoan hỉ, người kia thấy người này giữ giới
được thanh tịnh thì cũng hoan hỉ. Đó là một sự hoan hỉ trong giới luật,
thấy được sự tiến bộ trong vấn đề tu trì của nhau, chứ không phải
là một sự hoan hỉ vì thấy nhau làm những điều sai trái. Cho nên khi thọ
giới rồi phải cố gắng tôn trọng giới, quý trọng giới, ai giữ được
chừng nào thì công đức lớn lao chừng đó; nếu ai vì nghiệp duyên không
giữ được nhiều thì người đó đã phạm cái giới của họ. Mặc dầu
họ phạm giới, ta không thể khinh họ nhưng cũng không thể hoan hỉ với họ
được. Nếu khi thấy một người phạm giới mà mình hoan hỉ theo, tức
có nghĩa mình đã phụ họa theo sự phạm giới đó. Đó là sự hoan hỉ của
Tăng, đúng nghĩa là một vị Tăng hoan hỉ trước sự thọ trì giới luật
thanh tịnh.
Điều lợi ích thứ ba: Linh Tăng
an ổn (Khiến Tăng an ổn). Giới pháp khiến cho Tăng đuợc an ổn.
Tăng nhờ đâu mà an ổn? Khi thấy một người không thọ trì giới thì
chính người đó đã có tội lỗi, khi thân, khẩu, ý đã có tội lỗi thì
không những không thể an ổn cho chính người đó mà còn làm cho người khác
phải khổ lây. Khi trong chúng Tăng, người này giữ giới thân, khẩu, ý
được thanh tịnh, an ổn, người kia giữ giới thân, khẩu, ý được thanh
tịnh, an ổn, thì sẽ có một chúng hội, một Tăng đoàn mà ai nấy đều
sống trong giới pháp thanh tịnh, đều được an ổn như nhau, lấy sự trì
giới thanh tịnh mà an ổn, chứ không phải lấy điều hơn thua, điều vật
chất, địa vị mà an ổn. Thử hỏi, trong một đám đông từ hai người
trở lên, hàng trăm hàng ngàn người mà nếu không có giới luật thì
chúng Tăng đó có thể nào an ổn không? Không, chúng Tăng đó sẽ vô kỷ
luật, sẽ vô hạnh. Khi chúng Tăng vô kỷ luật, vô hạnh thì chúng Tăng đó
sẽ không an ổn; không an ổn cho từng cá nhân cũng như không an ổn cho cả
đoàn thể. Cho nên giới của Phật có sự lợi ích thiết thực vô cùng
là làm cho chúng Tăng an ổn, an lạc.
Điều ích lợi thứ tư: Linh
vị tín giả tín (Khiên người chưa tin thì họ phát khởi lòng tin). Chúng
ta biết rằng, Tăng là một trong ba ngôi Tam Bảo. Tăng là hình dáng, hình
ảnh của Phật ở tại thế gìan. Tăng có trang nghiêm, có thanh tịnh thì bấy
giờ Tăng mới thành là một Tăng Bảo; thành Tăng Bảo thì mới là chỗ
quy ngưỡng và phát lòng tin cho tín đồ. Nhờ giới pháp mà một vị Tăng
được thanh tịnh trang nghiêm, như hình ảnh của đức Phật hiện ra ở giữa
thế gian.
Đức Phật đã diệt độ rồi, xa
quá! Cần phải có hình ảnh của đức Phật sống động ở trong một vị
Tăng có giới, có tuệ để làm nơi phát lòng tin Tam Bảo cho những người
chưa tin. Khi một vị Tăng thanh tịnh hướng dẫn cho những người chưa
tin, phát khởi lòng tin thì vị Tăng đó được chúng Tăng quý trọng và
tín đồ hân hoan. Trái lại, khi có một vị Tăng không tu hành trang nghiêm,
không thanh tịnh, không đứng đắn, thiếu kiến thức, không có lòng chánh
tín Tam Bảo, chắc chắn vị Tăng đó sẽ phá hoại lòng tin của kẻ khác.
Đối trước một vị Tặng không nghiêm túc, không thanh tịnh thì chẳng những
người chưa tin đã không tin, mà người có tin rồi cũng sẽ thối thất.
Điều ích lợi thứ năm: Dĩ
tín giả linh Tăng trưởng (Những người nào đã tin khiến cho họ được
Tăng trưởng). Khi một vị Tăng giữ giới hạnh nghiêm túc, oai nghi
đĩnh đạc, ngôn ngữ đàng hoàng, tâm tư rộng rãi, hiểu biết đúng đắn,
vị Tăng đó chầc chắn khi người khác nhìn vào phải phát khởi lòng tin,
và ai đã tin rồi thì chắc chắn sẽ Tăng trưởng thêm, kiên cố thêm chứ
không bị thối thất. Sở dĩ có những tín đồ lúc đầu đến chùa hăng
hái tin tường, nhưng thời gian sau bị thối thất, vì lẽ họ gặp chuyện
nọ chuyện kia của riêng họ một phần, mà cũng có một phần đáng buồn
là họ gặp những vị Tăng không đĩnh đạc, không đàng hoàng; vị Tăng
đó chẳng những đã không lợi cho mình mà cũng không có lợi cho tín đồ,
có nghĩa là không có lợi ích gì cho Phật pháp. Vậy biết rằng, một vị
Tăng giữ giới luật nghiêm trang, thanh tịnh, thì đó là một hình ảnh sống
động của đức Phật dẫu không toàn diện nơi thế gian, nhưng cũng đủ
là nơi nương tựa cho Phật tử, họ đã tin rồi càng tin thêm, kiên cố vững
chắc. Khi tín đồ càng tin Tam Bảo kiên cố vững chắc, thì đó là điều
tốt lành để cho Phật pháp được phát huy, tồn tại.
Điều lợi ích thứ sáu: Nan
điều giả linh điều (Đối với người ương ngạnh, khó điều phục
khiến được điều phục). Nếu không có giới thì không biết căn cứ
vào đâu mà nói người này có lỗi, người kia không có lỗi, người nọ
thanh tịnh, người kia không thanh tịnh...
Giới luật là chuẩn mực, là thước
đo để đo hành vi, ngôn ngữ, phạm hạnh của mỗi người. Khi đã có giới
luật, thì người nào phạm tới đâu xử trị tới đó; lấy giới luật
mà xử trị phân minh, rõ ràng. Khi đó dù có ngoan cố, ương ngạnh đến
đâu cũng phải bị điều phục. Nếu không điều phục được, thì theo Luật,
chúng Tăng sẽ cử tội “mặc tẩn”, không cho nhập vào Tăng đoàn nữa.
Như vậy, Tăng đoàn sẽ có người nhu thuận, chứ không còn có người
ngoan cố, khó điều phục.
Điều lợi ích thứ bảy: Linh
tàm quý giả đắc an lạc (Khiến người biết tàm quý được an lạc). Ngược
với người khó điều phục bị điều phục bằng giới luật, thì người
biết tàm quý, giữ gìn từng li từng tí để cho giới luật được trang
nghiêm thanh tịnh, khi thấy một lỗi nhỏ cũng hết sức sợ hãi, thì người
đó là người biết tàm biết quý. Người biết tàm quý mà giữ giới thì
chính họ được thanh tịnh an lạc, cũng là niềm an lạc cho cả chúng. Cho
nên, người biết tàm quý mới biết tránh tội lỗi, như trong Luận đã
nói: "Có năm thứ thuộc tự tánh ác, đó là tham, sân, si, vô tàm và
vô quý". Là năm cái ác tự trong bản tính, năm cái ác gốc gây ra năm
cái ác khác làm tai hại cho chúng, cho cá nhân, cho đến gia đình, xã hội.
Trong đó vô tàm, vô quý–nghĩa là không biết hỗ và không biết thẹn,
thì chính nó cũng là ác, nằm ngay trong bản thân, đó là cái ác gốc chứ
không phải cái ác ngọn. Một người đã không có tâm tàm quý thì người
đó phạm cũng không biết phạm; hoặc có biết phạm cũng không lấy làm hỗ
thẹn; mà người đã không biếl hỗ thẹn thì không thể làm sao giữ gìn
giới luật cho thanh tịnh được. Cho nên, người có tàm quý thì dù thấy
mỗi một giới nào dẫu nhỏ nhặt tới đâu cũng trang nghiêm giữ gìn
không dám phạm, bởi vì phạm thì thấy rất hỗ, rất thẹn. Và như vậy,
không phạm thì tất nhiên là tâm được an lạc; an lạc cho mình và an lạc
cho chúng. Ngược lại, một người không biết hỗ, không biết thẹn,cứ
liều phạm giới, phá giới, chắc chắn người đó không tạo nên an lạc
cho mình, cũng không tạo nên
an lạc cho chúng.
Điều lợi ích thứ tám: Đoạn
lậu hoặc hiện tại (Nhờ giới luật mà dứt trừ lậu hoặc trong hiện
tại). Hữu lậu là gì? Cái gì gọi là hữu lậu? "Lậu" là một
tên riêng của chữ "phiền não". Phiền não như tham, sân, si có
tính cách rỉ chảy, tươm rỉ ở nơi sáu căn của chúng sinh, làm cho sáu căn
của chúng sinh bị ô nhiễm. Nếu khi mắt nhìn là mắt nhìn, thì sự nhìn
đó trong sạch; nhưng nếu mắt nhìn mà có lòng tham lam, say đắm trong đó,
thì cái nhìn đó trở nên ô nhiễm, trở nên xấu. Tai nghe là tai nghe, nhưng
nếu nơi cái nghe đó mà có lòng tham chen vào, thì cái nghe đó trở thành
ô nhiễm, trở nên xấu. Miệng nói là miệng nói, lưỡi nếm là lưỡi nếm,
thân cảm xúc là thân cảm xúc, nhưng nếu có lòng tham phát sinh nơi cảm xúc
đó thì sự cảm xúc đó trở thành nhớp nhúa, ô nhiễm; giống như mụt
ghẻ tươm nước ra, phiền não tươm ra nơi sáu căn: thấy, nghe, ngửi, nếm,
xúc chạm, ý nghĩ cũng như vậy, cho nên gọi là lậu. Và những thứ đó
nó làm cho chúng sinh bị lọt mãi vào trong tam giới không thoát ra được,
cũng như nước trong bình lủng giọt xuống, cho nên gọi là lậu. Nói tóm
lại, chữ "lậu" là một danh từ khác để chỉ cho phiền não hay
chữ "lậu hoặc". Thường thường ở trong kinh Nikàya (kinh tạng
Pàli) thì gọi chung là lậu hoặc. Hoặc là sự mê lầm. Sự mê lầm đây
là chỉ cho tham, sân, si, cho nên gọi chung là lậu hoặc. Còn chữ "hữu
lậu" nghĩa là sao? Hữu lậu tức là có sự lậu hoặc. Như câu
"tích thành hữu lậu chi nhân", nghĩa là chứa thành cái nhân hữu
lậu, là cái nhân có phiền não, để phải chịu quả báo trong ba cõi.
Chúng ta là con người hữu lậu, bởi vì còn các phiền não. Cái sắc gì
mà ta nhìn thấy, cái tiếng gì mà ta nghe thấy, nếu nó gợi lên, làm cho
ta Tăng trưởng phiền não, thì pháp đó gọi là pháp hữu lậu. Tâm ta là
tâm hữu lậu; các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc là pháp hữu lậu. Vậy
cái hữu lậu đó làm sao mà trừ? Lấy chi mà trừ? Không thể lấy tiền,
lấy vàng, lấy danh vọng, lấy địa vị quyền thế mà trừ được. Bằng
giới pháp của Phật mà trừ được các lậu hoặc trong hiện tại, đó gọi
là đoạn hữu lậu hiện tại.
Điều lợi ích thứ chín: Đoạn
vị lai hữu lậu. Người giữ giới hôm nay không phải chỉ trừ phiền
não hôm nay, mà đồng thời trừ được phiền não trong tương lai. Bởi vì
phiền não tương lai chính là trừ phiền não ngày hôm nay làm mầm mống.
Khi đã trừ được mầm mống của phiền não trong hôm nay thì đồng thời
cũng trừ được phiền não trong ngày sau. Nghiệp cũ bị dứt đi, nghiệp mới
không tạo nữa, đó là đích của người tu hành, mà cũng là đích của người
thọ giới pháp. Đó là điều lợi ích thứ chín của giới luật.
Điều lợi ích thứ mười: Linh
chánh pháp cửu trú (Khiến chánh pháp tồn tại mãi). Chánh pháp cửu
trú, đây là điều lợi ích tổng quát Linh chánh pháp cửu trú là khiến
cho chánh pháp của Phật được tồn tại lâu bền giữa thế gian. Nếu
không có giới luật thì Phật pháp không thể tồn tại lâu dài giữa thế
gian được. Nếu không có giới luật, thì Tăng không thành Tăng, cư sĩ không
thành cư sĩ, tức không có người tu hành truyền bá thì Phật pháp không
sao mà tồn tại giữa thế gian được. Cho nên, cái lợi ích cuối cùng của
giới pháp là khiến cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Như các vị đã biết, giới luật
là thọ mạng của Phật pháp. Khi nào giới luật còn là Phật pháp còn,
khi nào giới luật không còn thì Phật pháp không còn. Cho nên mỗi lần Phật
chế một giới nào Ngài cũng đều nêu ra mười điều
lợi ích đó để chỉ rõ cho người
thọ giới thấy, biết, kính trọng, quý báu để lãnh thọ và hành trì Vậy
chuyện thọ giới là một bước quan trọng vững chắc trên con đường giải
thoát. Bao nhiêu pháp môn của Phật dạy tóm lại không ngoài ba thứ Giới-Định-Tuệ
mà Giới là bước thứ nhất, bước cơ bản. Có giới mới có định, có
định mới có tuệ. Khi Giới-Định-Tuệ đã thành tựu rồi thì biết rằng
trong giới có định, trong định có tuệ, trong tuệ có giới; ba thể là một.
Một người có đủ cả giới, định, tuệ là một người viên mãn, một
người có thể đoạn trừ lậu hoặc trong hiện tại và tương lai, có thể
làm cho chánh pháp của đức Phật thường trụ ở thế gian. Đức Phật
thường dạy rằng: “Các ngươi hãy cố gắng tu hành, đừng làm kẻ tối
hậu trong giáo pháp Ta". "Đừng làm kẻ tối hậu trong giáo pháp
Ta", nghĩa là sao? Nghĩa là đừng cho giáo pháp của đức Phật chấm dứt
ngay nơi đời mình, mà phải truyền bá và truyền bá bằng cách gìn giữ
giới luật nghiêm trang, tạo thành một hình ảnh đức Phật ở giữa thế
gian. Giữ gìn tâm niệm thanh tịnh, sáng suốt, đem chánh pháp của đức Phật
truyền bá giữa thế gian, được như vậy thì Phật pháp sẽ không chấm dứt
ngay nơi ta và ta không là kẻ tối hậu của Phật pháp.
Lần căn dặn đó của đức Phật
thắm thiết lắm. Nếu ai có chí nguyện lớn lao muốn làm đệ tử Phật,
thì đối với lời dạy đó thấy rất thiết tha. Vì sao Phật lại căn dặn
như vậy? Bởi vì Phật thấy rằng, chính giáo pháp của đức Phật mới
đem lại an lạc chơn thật cho chúng sinh, vì chính giáo pháp của đức Phật
đã do bao công lao, nhiều đời nhiều kiếp tu hành mới phát minh được, mới
giác ngộ được và dạy bảo lại. Với một giáo pháp quý báu như vậy mà
một người đệ tử của Phật không biết tôn trọng giữ gìn, để cho mất
đi, thì đó là một điều hết sức đáng tiếc! Cho nên Ngài phải căn dặn.
Có thấy rõ giới như vậy thì người muốn thọ giới Phật không phải
đem cái tâm niệm tầm thường hời hợt mà thọ trì, mà phải có chí tiết
trượng phu mới có thể thọ được.
Như quý vị còn nhớ, khi thọ
Sa-di, vị Bổn sư cầm dao cạo bỏ tóc trên đầu đệ tử vừa đọc:
Thiện tai đại trượng phu,
Năng liễu thế vô thường,
Khi tục thủ Nê-hoàn,
Công đức nan tư nghị.
Hủy hình thủ khí tiết,
Cát ái từ sở thân,
Xuất gia hoằng Phật đạo,
Thệ độ nhất thiết nhân....
Tạm dịch:
Lành thay bậc trượng phu,
Hiểu được đời vô thường,
Bỏ tục hướng Niết-bàn,
Công đức khó bàn nghĩ.
Hủy hình giữ khí tiết.
Cát ái từ người thân,
Xuất gia hoằng Phật đạo,
Thề độ hết chúng sinh...
Đó là đọc lời tán thán người
xuất gia. Là một người có chí tiết trượng phu, nhận rõ được đời vô
thường nhưng không sống với đời vô thường, mà lại biết tìm con đường
giải thoát khỏi sự đau khổ của đời vô thường.
Vì vậy, trong Luật còn gọi người
xuất gia, người tu sĩ là chiến sĩ. Chiến sĩ, tu sĩ này đánh với ai? Chiến
sĩ đặc biệt này đang đánh với bốn thứ giặc: thiên ma (ma ba tuần),
phiền não ma, ngũ ấm ma và tử ma (ma chết). Người xuất gia đánh bốn thứ
giặc ấy bằng sự gìn giữ giới luật; nếu phạm giới là thua, là chiến
sĩ bại trận. Vì vậy bốn Ba-la-di giới có khi gọi là tứ khí, vì phạm
vào thì coi như cây Sa-la, cây dừa, cây cau bị chặt ngang rồi thì không sống
được nữa; có khi gọi là tha thắng, vì phạm vào là bị thua và ma kia thắng.
Một chiến sĩ tu sĩ như vậy chẳng
phải là một trượng phu sao? Không có chí tiết đại trượng phu thì
không đánh nổi bốn thứ đó. Nhưng có được chí tiết đại trượng phu
là khi nhận rõ được cuộc đời vô thường, chỉ trong nháy mắt với một
tinh thần giác ngộ rõ ràng, người đó sẽ tìm cách để giải thoát sự
vô thường đó. Đức Phật đã dạy rằng, có những người khác cũng biết
rằng sinh, già, đau, chết nhưng họ không tìm đường để giải thoát khỏi
chúng, còn Ta biết sinh, già, đau, chết nhưng Ta muốn tránh sự sinh, già,
đau, chết đó, nên Ta xuất gia tìm đạo và được giác ngộ. Nếu tất cả
người xuất gia tìm đạo không có chút nào nhận thức được lẽ vô thường
đó, trái lại thứ chi cũng cố chấp, thứ chi cũng bám chặt, thứ chi cũng
ham muốn, thì chắc chắn không thể nào kéo dài đời sống xuất gia, nghiêm
trì giới luật và đánh hơn các thứ ma để tiến trên con đường giải
thoát Niết-bàn công đức khó nghĩ nghì được. Hủy hình giữ chí tiết:
cạo bỏ râu tóc, ăn mặc đạm bạc, ngủ đơn sơ, không trang sức như thế
gian. Hủy hình để giữ chí tiết, xuất gia hoằng Phật đạo, thề độ tất
cả mọi người. Đó là lời tán thán cái chí trượng phu của người xuất
gia. Vậy chúng ta cũng tự hỏi lại chúng ta, có được là trượng phu chí
tiết như thế không?
Đối với việc xuất gia, chư Tổ
đã nhắc đi nhắc lại nhiều cách để ca ngợi, khuyến khích, nâng đỡ,
chỉ rõ cho người xuất gia phải sống và làm như thế nào. Các vị học
văn Cảnh sách rồi, chắc cũng nhớ khi nói về xuất gia, có câu: "Phù
xuất gia giả, phát lúc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng,
chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu, nhược bất như
thử, lạm xí Tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên
hành xứ thốn bộ bất di hoảng hốt nhất sinh, tương hà bằng thị...".
Phàm là người xuất gia, tức là
phát tâm cất bước đi đến phương trời cao rộng (phát túc siêu phương).
Tức là xuất gia tu hành để cầu giải thoát tự lợi và để truyền bá
Chánh pháp, làm cho giống Phật được tồn tại, phát huy. Làm chấn động
và nhiếp phục ma quân là phiền não ma, tử ma, ngũ ấm ma và thiên ma, để
vượt lên trên chúng; làm một người giải thoát, một người chiến thắng,
đại biểu cho Phật, hoằng dương Chánh pháp. Như vậy mới là báo được
bốn ân: ân cha mẹ, ân quốc gia, ân Tam bảo, ân sư trưởng, ân chúng sinh
và bạt tế tam hữu là cứu độ ba cõi. Nếu không được như vậy là tạm
xen vào trong hàng ngũ chúng Tăng, mang hình thức xuất gia mà tâm niệm đầy
tục lụy, ngôn ngữ hành vi chỉ sơ sài bết bát, không thành tựu được
điều gì có ích, chỉ muốn tiêu dùng của tín thí. Chỗ hành động, nói
năng, tâm tư, suy nghĩ và những tư tưởng của ngày xưa, khi chưa xuất
gia, chưa tu tập như thế nào thì bây giờ cũng y nguyên như thế đó không
hề thay đổi chút nào. Chỉ sống một cuộc đời hoảng hốt, bập bồng,
như vậy không có gì nắm chắc trong tay thì biết lấy chi để nương nhờ
trong khi sống và trong khi nhắm mắt? Mình đã không biết lấy chi nương nhờ
rồi, thì Phật pháp còn dựa vào đâu để mà tồn tại giữa thế gian cho
lâu dài được! Cho nên, nói tới chí tiết xuất gia, nó lớn lao rộng rãi
lắm và cao thượng lắm. Nếu như mỗi một người trong hàng Phật tử,
trong hàng Tăng Ni mà tâm tâm niệm niệm, mỗi người đều có một tâm niệm,
phát nguyện mà tự vấn, mà cảnh tỉnh với lòng mình để có một chí hướng
như vậy, thì tất nhiên không hỗ thẹn là một người
đệ tử xuất gia của đức Phật
khi đã thọ trì giới pháp.
Cho nên tôi mong các vị nên coi cái
dịp thọ giới hôm nay là một điều quan trọng, là một dịp may quý báu
cho mình phụng sự Tam Bảo, cho mình báo ơn sư trưởng, báo ơn cha mẹ, báo
ơn tứ ân để bạt tế tam hữu.
Chính giờ phút này là giờ phút
quyết định, quyết định cho đời mình hôm nay và ngày mai để trở thành
một vị Tăng, đứng trong hàng ngũ Tăng Bảo, góp một phần vào việc hoằng
dương chánh pháp, duy trì chánh pháp để cửu trụ thế gian, mà nếu không
thì ngược lại đã không lợi ích cho mình mà còn góp phần vào việc làm
cho Phật pháp chóng suy vong.
Nhiều lúc chúng ta băn khoăn tự hỏi:
không biết Phật pháp tương lai thế nào? Giả như câu hỏi đó đem hỏi lại
nơi chính mỗi một người trong chúng ta, thì sẽ thấy câu trả lời rất
thiết thực, thâm thúy. Muốn biết tương lai Phật pháp như thế nào thì
ta phải nhìn lại ta là một vị Tăng sống như thế nào! Nếu một vị Tăng
thấy được mình sống như thế nào, một vị Ni thấy được mình sống
như thế nào thì biết Phật pháp tương lai cũng như thế đó. Nếu một vị
Tăng, vị Ni, vị cư sĩ hư hỏng thì Phật pháp sẽ hư hỏng. Nếu một vị
Tăng, một vị Ni, một vị Phật tử sống chính đáng, trong sáng như Phật
pháp thì tương lai Phật pháp sẽ đàng hoàng, rực rỡ chính đáng. Đó là
điều thiết thực khi ta băn khoăn với một ưu tư hết sức quý báu. Vẫn
biết mọi thành tựu nhờ nhiều duyên mà thành tựu, song trong đó cái
duyên chính yếu nhất là từ nơi Tăng, Ni và từ nơi cư sĩ.
Tôi cầu mong giới đàn quý báu như
thế này lập nơi một cơ sở của Cố Đại lão Hòa thượng Thiện Hòa, một
vị Đại Hòa thượng đáng kính mà các vị đã có duyên hội ngộ đến
đây, trước thập sư để thọ giới pháp. Các vị nên phát tâm hết sức
dõng mãnh, đại trượng phu; hết sức chí tiết để xuất gia hoằng Phật
đạo, thệ độ nhất thiết nhân, để báo đáp công ơn Tam Bảo và khỏi
phụ chí hướng xuất gia của mình khi đã có duyên lành đến chùa học Phật.
Bấy nhiêu lời mong các vị chuẩn
bị tâm tư thu dọn tâm tư cho được thanh tịnh trang nghiêm, kiên cố để
ngày mai trước thập sư, các vị lãnh thọ giới pháp cao cả của đức Phật,
làm tròn một vị Tăng, một vị Ni, một vị cư sĩ xứng đáng là một người
đệ tử con Phật.
Mục Lục
| 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6