THÀNH KÍNH ĐẢNH LỄ ĐỨC THẾ TÔN,
NGÀI LÀ BẬC ỨNG CÚNG, ĐẤNG CHÁNH BIẾN TRI
Nhân mùa Phật Đản, con xin sám hối bao lỗi lầm con đã gây ra.
Nay con cúi đầu xin sám hối,
Một lòng cầu Đức Phật chứng tri,
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới,
Nguyện sống ngày đêm trong chánh niệm,
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
KINH
THỪA TỰ PHÁP
Bài kinh
số 3, kinh thừa Tự Pháp
Đại Tạng
kinh Việt Nam, PL 2536. 1992
Dịch giả:
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Nguyên Nghĩa
_____________________________
Tóm
tắt:
1/
Thế Tôn có lòng thương yêu các đệ tử của Ngài, mong muốn sao cho các Tỳ
kheo luôn ghi nhớ học tập hành trì, gìn giữ những lời dạy bảo, gìn giữ
giáo pháp, như là tài sản quý giá nhất:
“ Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp của
Ta, không phải là những người thừa tự tài vật”
2/
Thế Tôn khuyên dạy các đệ tử nếu không ghi nhớ học tập hành trì, gìn
giữ những lời giáo huấn, gìn giữ giáo pháp, mà lại chú tâm vào hình thức
bên ngoài, vào việc tích lũy, sở hữu, thụ hưởng tài vật, tài sản, danh
vị thì không những tự mình làm cho mình hoen ố, mà còn ảnh hưởng đến
Đức Thế Tôn nữa:
“ Mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: Cả thày và trò
đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự
pháp”.
3/
Nếu các đệ tử chuyên tâm thực hành giáo huấn, thì cả Thế Tôn và đệ tử
được mọi người tôn kính:
“ Mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: Cả thầy và trò là
những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật
4/
Thế Tôn khen ngợi vị Tỷ-kheo thứ nhất trong hai vị Tỳ-kheo đã nhớ đến
lời dạy của Thế Tôn, nên đã không ăn các thức ăn tàn thực, dù được cho
phép, do đó đã phải trải qua đêm ngày bị đói lả và kiệt sức. Trong khi
vị Tỳ kheo thứ hai không nhớ đến lời dạy của Thế Tôn, đã ăn loại đồ ăn
ấy và trải qua đêm ngày hôm ấy không bị đói lả kiệt sức:
“ Nhưng đối với Ta, Tỷ- kheo đầu tiên đáng được kính nể hơn, và đáng
được tán than hơn.”
5/
Thừa tự pháp không thừa tự tài vật sẽ đưa đến ít dục, biết đủ, khổ
hạnh, dể nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn. Là nền tảng để thành tựu giới
hạnh, thành tự quán hạnh:
“ Vì sao vậy? vì như vậy sẽ đưa đến cho Tỷ kheo ấy, trong một thời gian
lâu ngày, ít dục, biết đủ, khổ hạnh, dể nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn”
6/
Tiếp theo lời dạy của Thế Tôn, Tôn giả Sariputta giảng cho các Thượng
tọa, Trung tọa Tỷ-kheo và các vị mới thọ Tỷ-kheo về trường hợp vị Đạo
sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly, và có ba trường hợp
đáng bị quở trách, và đáng được tán thán:
- Ba trường hợp đáng bị quở trách:
+ Vị Đạo
sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly;
+
Những
pháp nào vị Đạo sư dạy từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ;
+
Họ
sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn
ly.
- Ba trường hợp, đáng được tán thán:
+
Vị
Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly;
+
Những
pháp nào vị Đạo sư dạy từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ;
+
Họ
không sống đầy đủ, lười biếng; không dẫn đầu về đọa lạc; không bỏ rơi
gánh nặng sống viễn ly.
7/
Tham, sân là ác pháp, có con đường Trung đạo diệt trừ tham, diệt trừ
sân, khiến tịnh nhản sanh, khiến chân trí sanh, hướng đến tịch tịnh,
thắng trí, giác ngộ , Niết-bàn;
8/ Con đường Trung đạo đó là con đường Thánh tám ngành: Chánh
tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh
tấn, Chánh niệm, Chánh định;
9/ Các biểu hiện ( trạng thái ) khác của tham và sân là: phẩn
nộ, hiềm hận, giả dối, não hại, tật đố, xan lẫn, man trá, phản bội,
ngoan cố, bồng bột, mạn, tăng thượng mạn, kiêu, phóng dật;
10/ Con đường Trung đạo, con đường Thánh tám ngành diệt trừ các ác
pháp tham, sân và các biểu hiện của tham và sân. Khiến tịnh nhản sanh,
khiến chân trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ , Niết-bàn.
Luận:
1/
Thừa tự pháp, tức gìn giữ duy trì giáo pháp, bằng việc luôn chuyên cần,
kiên trì, tinh tấn dõng mãnh, không thối thất trong cuộc sống hàng ngày
để thực hành và đi đến chứng ngộ giáo pháp. Thừa tự pháp tức giáo pháp
luôn tồn tại một cách sinh động trong tâm hồn, trong lý trí. Giáo pháp
luôn được nhận biết trong tỉnh thức để được thể hiện trong từng phút
giây hiện tại, để đưa đến những hiệu quả thiết thực, được thấy rỏ ràng,
được chứng minh trong thực tế và là tấm gương cho những người chung
quanh mình thấy, tin và làm theo.
Từ
sự tự chứng ngộ giáo pháp sẽ đưa đến khả năng hướng dẩn người khác
chứng ngộ như chính mình. Tự giác để có khả năng giác tha.
2/
Thừa tự tài vật, tức gìn giữ, nắm giữ, sở hữu, thọ lãnh, thụ hưởng
tài sản, tài vật. Từ những vật dụng thông thường như thức ăn, y phục,
tiện nghi sinh hoạt . . . . đến xe cộ, nhà cửa, đất đai . . . cho đến
chức danh, địa vị, uy quyền. Những thứ tài vật trên được người khác
cúng dường do mình được mang danh nghĩa đệ tử của Thế Tôn hay do Thế Tôn
trực tiếp ban cho.
3/
Thừa tự tài vật, không thừa tự pháp tức là người cư sỹ tuy đã quy y
Tam bảo nhưng không thấm nhuần giáo pháp, không thấm nhuần lời dạy bảo
của Thế Tôn, quên đi mục đích chính yếu của người Phật tử
là phải luôn chuyên cần nổ lực ngày đêm thực hành giáo pháp, để ngày
càng đến gần thánh đạo hơn.
Các vị ấy không nuôi dưỡng giáo pháp trong tâm hồn, giáo pháp
không có sự sống mà chỉ tồn tại trong ý niệm, khái niệm, trong
kiến thức, trong nghiên cứu lý luận, trong lời nói, hay hình thức bên
ngoài. Đời sống, sinh hoạt hàng ngày của các vị ấy luôn thiên về, luôn
hướng về thọ lảnh, thọ nhận, sở hữu, tích lũy, thụ hưởng tài vật, tài
sản, tiện nghi, danh vị, quyền uy. Dù đã là người cư sỹ, đã quy y Tam
bảo, nhưng các vị ấy đã để cho các cảm thọ thế tục mới thay thế các cảm
thọ thế tục củ dưới các hình thức khác tế nhị hơn, vi tế và khó nhận
biết hơn, các vị đã vô tình công chức hóa hay nghiệp đoàn hóa
việc thực hành giáo pháp trong hoạt động thường ngày.
4/
Đối với người bình thường, trong sự thụ hưởng các dục lạc thế gian,
các khóai lạc do việc ăn uống mang lại rất thân quen gần gủi, chúng là ý
nghĩa và mục đích của cuộc sống, dù đôi khi phải đấu tranh khốc liệt cho
mục đích nầy, phấn đấu để ăn ngon mặt đẹp cũng là điều chính đáng.
Đối
với người cư sỹ thì khác, mục đích đời sống không phải để hưởng thụ việc
ăn uống. Do ăn uống vốn là bản năng sinh tồn mạnh nhất, đồ ăn thức uống
giúp cơ thể tồn tại, được thọ dụng mỗi ngày, thậm chí nhiều lần trong
ngày, thế nên việc ăn uống thường xuyên vượt ngoài tầm kiểm soát, sự
hưởng thụ các khoái cảm do ăn uống mang lại những lúc quá đáng thường
khó kiềm chế, dể tự đánh lừa, tự bào chửa, an ủi, để được tiếp tục tái
diển sau đó.
Việc
ngăn ngừa, chế ngự và trừ diệt các ý niệm, các cảm giác thèm muốn, thèm
thuồng, phân biệt ngon dở, đẹp xấu, khen chê, yêu ghét khởi lên từ việc
ăn uống tưởng chừng như đơn giản, dể dàng, nhưng thật ra rất phức tạp,
rất khó khăn. Tham ăn, tham uống hay tham hưởng thụ các cảm thọ từ sự
ăn uống hay những gì liên quan đến nó, một khi được thỏa mản sẽ dẩn đến
sự u mê, mê muội, si ám, liệt tuệ. Ngược lại, khi không được thỏa mản
sẽ đưa đến sự bực bội, oán ghét, hờn giận, sân hận ( mà làm sao và bao
giờ thỏa mản cho được! ). Tham, sân, si nầy thường ít được quan tâm,
để ý tới, nhưng chúng lại là đóm lửa được nuôi dưởng, được huân tập
ngày nầy qua ngày khác, tích góp nhân duyên để thồi bùng lên ngọn lửa
tham-sân-si khác lớn hơn bội phần khi đủ điều kiện.
Lại nửa, tham sân si nầy, chúng âm thầm từng ngày, từng giờ, từng phút
giây tích tụ bồi lắng làm cho lớp trầm tích lậu hoặc-phiền nảo hiện hữu
bấy lâu nay, vốn đã tồn tại trong đáy sâu tâm hồn từ vô lượng thời gian
trong quá khứ, nay càng trở nên quá rắn chắc không dể gì làm cho muội
lược, không dể gì xóa bớt, không dể gì xóa bỏ.
( Có
người không thể ăn chay dù chỉ một buổi, có người ăn chay nhưng không
thể thiếu các loại thức ăn ưa thích, hoặc phải lấy tên món ăn mặn mới
thấy ngon, có người không ăn một buổi được, dù chỉ trong một ngày, có
người tự hào về việc trường chay hay nhịn ăn, có người hảnh diện vì thân
thể mập mạp hồng hào hay hổ thẹn vì thân thể gầy ốm xanh xao, có người
tự hào khi ăn món ngon vật lạ đắt tiền, có người giận dổi buồn phiền
những khi dùng bửa ăn đạm bạc, có người trước khi ngủ hay dù vừa thức
giấc đã nghĩ đến việc ăn uống. . . Những ý niệm, những cảm thọ về ăn
uống luôn ám ảnh, luôn chi phối tâm trí con người, cho dù đó là
người ăn chay hay người ăn mặn, dù ăn ít hay ăn nhiều, dù mập hay ốm,
dù già hay trẻ, dù giàu hay nghèo, dù quyền quý hay dân dã, dù là người
Đông phương hay người Tây phương và thậm chí cho dù đang bệnh tật hay
khỏe mạnh.)
Cảm giác khoái lạc thích thú do việc ăn uống mang không những dể có điều
kiện được thỏa mản mà còn có hiệu năng khỏa lắp tạm thời nổi đau khổ
phiền muộn, giúp lắp đầy phần nào sự cô đơn thiếu thốn, trống rổng trong
tâm hồn dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi.
Các cảm thọ đến từ thế gian, dù vật chất hay tinh thần, dù lạc hay khổ
hay không lạc không khổ đều là chướng ngại trong việc tầm cầu giải thoát.
Trong bài kinh số 2 ( Kinh Tất cả lậu hoặc), đoạn nói về pháp môn thọ
dụng, Thế Tôn đã dạy rất rỏ về ý nghĩa và mục đích của việc ăn uống.
Trong bài kinh nầy, Thế Tôn lại một lần nữa lấy việc ăn uống để khuyên
răn, dạy bảo. Đây là điều cần phải hết sức chú ý tìm hiểu.
5/
Ba trường hợp đáng bị quở trách thuộc về các trường hợp: Thừa tự tài
vật, không thừa tự pháp, xa rời việc thực hành giáo pháp, xa rời mục
đích giác ngộ thoát khổ.
- Không viễn ly là ham thích đời sống thế tục
- Không từ bỏ là gắn bó với đời sống thế tục
-
Viễn ly là nhàm chán, rời xa đời sống thế tục.
- Từ bỏ là không dính mắc đến đời sống thế tục.
Nhàm
chán rời xa, không dính đến đời sống thế tục không những thuộc về các
phạm trù:
-
Cư ngụ,
cư trú, nơi ở, nơi chốn, trú xứ;
-
Sự sở
hữu, nhận lấy, thọ nhận, thọ dụng, sử dụng các phương tiện, tiện nghi
trong làm việc và sinh hoạt hàng ngày;
Mà còn
thuộc các phạm trù:
-
Lời
nói;
-
Cử chỉ,
hành động;
-
Tình
cảm, ý nghĩ, suy tư.
Đời
sống độc cư, bần hàn tại các nơi chốn, các trú xứ xa vắng yên tỉnh,
tránh xa chốn thị thành đông người sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc thực
hành giáo pháp hơn là đời sống gia đình tại các nơi ồn ào náo nhiệt vốn
gò bó, hạn hẹp và đầy bất tịnh. Nhưng dù cư ngụ nơi đâu, dù sống một
mình hay với ai thì điều cơ bản cốt yếu của viễn ly và từ bỏ là sự
nhàm chán, là rời bỏ, rời xa, xả bỏ, buông bỏ, không liên hệ, không
dính đến, không bị ràng buộc bởi tất cả cảm thọ dù lạc hay khổ, dù
không lạc không khổ cùng những ý niệm, khái niệm, những ký ức hoài niệm,
những tư tưởng, suy tư thuộc về thế tục, liên hệ, liên quan đến thế tục.
Viễn ly và từ bỏ không có nghĩa là đoạn diệt, là phủ nhận thực tế khách
quan, là phủ nhận, từ bỏ, xa lánh, trốn tránh trách nhiệm và bổn phận
đối với gia đình, với xã hội, với cộng đồng. Mà chính là viễn ly và từ
bỏ tưởng tri; viễn ly và từ bỏ tưởng điên đảo; viễn ly và từ bỏ tà kiến,
tà niệm, tà tư duy, tà định, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn;
viễn ly và từ bỏ vô minh, tham dục, sân hận. Để đến với thắng tri, với
liễu tri, với tịnh nhãn, chánh kiến, chánh niệm, chánh trí, thắng trí,
giác ngộ.
Xa
rời, xả bỏ, từ bỏ, không liên hệ, không dính mắc đến những ý niệm, những
cảm thọ liên hệ đến thế tục chính là không bị những ý niệm và cảm thọ
thuộc thế tục bao vây, che lắp, chi phối, khuynh đảo, nhiếp phục; Chính
là tâm không bị ràng buộc, bị mê mờ, bị sai khiến, bị giao động, biến
nhiểm trước bất cứ điều kiện, hoàn cảnh, cảnh ngộ cùng những tác động,
những áp lực đên từ môi trường thế tục dù trực tiếp hay gián tiếp; Chính
là tâm không còn khởi lên những ý niệm, quan niệm, tư duy thuộc
về ngã-ngã sở; ngã- đối tượng; ngả- không ngã; Chính là nhận biết rỏ
về bản chất duyên sinh, vô thường, bất toại nguyện, khổ, vô ngã của
tất cả hiện tượng, tất cả vạn vật.
Viễn ly và từ bỏ là “ Sự Tự Do Thật Sự”, là “ Sự Tự Do
Đúng Nghĩa”, tự do trong lời nói, tự do trong hành động, tự do trong ý
nghĩ, cảm xúc, nhận thức. Tợ như cây sen sinh ra và lớn lên trong ao đầm
với bùn lầy hôi tanh, với nguồn nước đầy nhiểm ô, đầy bất tịnh. Nhưng
cây sen ấy vẩn không bị tác động, không bị ảnh hưởng bởi sự ô nhiểm,
bởi sự bất tịnh từ môi trường mà mình đang sống; Vẩn kiên trì nhẩn
nại để ngày đêm thuận theo dòng nước, hết lên rồi
xuống đổi thay bất tận theo con nước thủy triều; Vẩn kiên trì miệt
mài tăng trưởng và phát triển mạnh mẻ, kiên cố, vững chắc, vững chãi;
Để có khả năng vươn mình lên bầu trời cao viễn; Để có khả năng
vươn lên tầm cao thánh đạo, tỏa ra những đóa hoa tươi đẹp, thanh cao
mang sắc thắm cùng hương thơm phụng hiến cho đời, cho vạn vật, cho
muôn loài khắp cùng mọi phương hướng trong khắp cả sáu nẻo đường.
6/
Thời Thế Tôn, có rất ít thành thị, dân chúng chủ yếu sống tại các thôn
làng, nhà thường có mái tranh vách đất, các thảo am hay các túp lều nhỏ
để các vị Tỳ-kheo trú ngụ trong mùa mưa thường do các Ngài tự làm lấy,
rất đơn sơ với khung bằng tre uốn cong xuống đất, lợp cỏ hay cói, chỉ
đủ cho một người, thậm chí rất thấp không thể đứng thẳng. Các tịnh xá
lớn hơn, có giảng đường, nhưng cũng chỉ được làm bằng cây lợp lá. Các vị
Tỷ-kheo chỉ trú ngụ tại các thảo am, tịnh xá vào mùa mưa thời gian còn
lại các ngài sống ngoài trời*.
Đây không phải là lối sống khổ hạnh hành xác, tự hành hạ thân thể cực
đoan mà là lối sống giản dị, bình dị diển ra thường ngày rất mực thanh
cao. Các Ngài đã từ bỏ hạnh phúc gia đình, từ bỏ hạnh phúc thế gian vốn
bản chất luôn biến động, đổi thay còn mất, luôn thiếu thốn, luôn khao
khát, luôn bất toại nguyện, khổ đau, bất tịnh, tầm thường, lập đi lập
lại vô vị và nhàm chán. Các Ngài đã từ bỏ chúng để đến với hạnh phúc
bền vững không bị lệ thuộc, không bị chi phối bởi các điều kiện thuận-
nghịch, cao- thấp, thành- bại, thắng-thua, hơn-kém, còn- mất của đời
sống thế tục, các Ngài đến với hạnh phúc ngay trong phút giây hiện tại,
thứ hạnh phúc rất mực đơn giản- giản dị- bình dị- thanh cao- nhẹ nhàng-
vững vàng- thảnh thơi- an lạc- an tĩnh- tĩnh lặng- thanh lương- dịu mát
. . . . Thứ hạnh phúc cao quý, giá trị hơn hạnh phúc thế gian bội phần
thường được gọi là hiện tại lạc trú, mà người thường không có khả
năng nghe, không khả năng thấy, không có khả năng cảm nhận, không có khả
năng nhận biết để sống và thưởng thức.
Các ngài đã tìm thấy cõi Tịnh độ trong ngay chính tâm hồn mình,
ngay chung quanh mình, trong muôn loài vạn vật, trong hạt sương, trong
tia nắng ban mai, trong chiếc lá đong đưa, trong gió bảo, trong mưa lủ,
trong nắng hạn, trong thị thành náo nhiệt, trong núi rừng yên tĩnh,
trong con côn trùng bé nhỏ, trong loài hùm beo, ác điểu, trong vô vàn
sinh vật cùng cỏ cây và hoa lá . . Các ngài không nương tựa
vào thuận cảnh để tìm thấy hạnh phúc, phấn khởi yêu đời, hay chấp trước
trước nghịch cảnh để than van, thất vọng, oán hận, sầu ưu khổ não.
Các Ngài luôn tự tại.
Thông qua cuộc sống bình dị hàng ngày, với cử chỉ trang nghiêm khiêm
tốn, với ánh mắt hiền hòa, nụ cười thân thiện gần gủi luôn nở trên môi,
các Ngài luôn kiên nhẩn, ân cần lắng nghe mọi lời nói dù là lời vu khống,
hay mạ lỵ, phỉ báng đi nửa, các Ngài luôn thốt lên những lời chân thành,
khiêm nhả, khoan dung từ ái, khích lệ, lợi ích, đúng với Chánh pháp
với bất kỳ những ai tiếp xúc với mình.
Một cách không cố ý, không cần nhắc nhở, thật tự nhiên, từ trong
Nhân cách các Ngài, âm thanh và vầng hào quang vi diệu tự tỏa ra,
lan tỏa ra đến với mọi người, hòa cùng hương thơm của lòng từ bi hỷ xả,
bình đẳng, không phân biệt giai cấp, thành phần xã hội, khiến cho tất cả
những ai khi có dịp diện kiến các Ngài, dù đứng tận ngoài xa đi nửa,
lòng họ cũng cảm thấy được an ủi, được sách tấn, khích lệ. Họ trở nên
tin tưởng, vững tin, bình tĩnh, phấn khởi, an ổn, an vui.
Không
còn yếu đuối, không còn sợ hãi, lo âu, không còn khao khát mong cầu, sân
hận, si mê hôn trầm, tâm họ trở nên tự tin, vững chắc, kiên cố, mạnh mẽ,
định tĩnh, an tĩnh, khiến cho khả năng “Tự khám phá
nước Tịnh độ” trong họ được đánh thức, được khơi dậy. Chánh tín,
lòng tin tuyệt đối vào Tam bảo trong họ được khởi lên và phát triển vững
chắc, dẩn đến lòng tin vào chính mình, lòng tin mình
thật sự có khả năng để nổ lực, chuyên cần, để chơn chánh sống thực
hành, thực hiện theo đúng những điều đã được Thế Tôn thương yêu dạy
bảo.
Từ
đó họ có thể tự mình phá bỏ, chặt bỏ, đốn ngã những lùm cây rậm
rạp tối tăm, những đám dây leo chằng chịt, những bụi gai nhọn um tùm,
chúng đang bao vây, bao phủ, che lắp khắp cả mọi phương hướng đến độ
không biết đâu là đường đi, nẽo về. Để chính họ tự nhận biết mình là ai,
đang ở đâu, để tự mình khởi lên ý muốn dừng lại bước chân đang ngày đêm
lang thang đắm chìm trong việc theo đuổi kiếm tìm ảo ảnh hái hoa bắt
bướm, để tự mình khởi lên nhu cầu mong muốn thoát ra khỏi mê cung mờ mịt
của tà niệm, của bất thiện tâm sở và để tự mình khai phá, tự
mình thiết lập con đường đi đến cõi Tịnh độ vốn đã và đang hiện hữu
ngay trong chính tâm hồn mình.
Không ham thích, không thích thú, không hoan hỷ các cảm thọ ấy, các
Ngài hướng đến sự từ bỏ, hướng đến sự thoát ly, sự xả ly hoàn toàn để
chấm dứt hoàn toàn đau khổ để từ đó cứu giúp người khác thoát khổ hoàn
toàn như chính các Ngài. Các Ngài đã vượt thoát khỏi vũng bùn lầy, đã
lên trên bờ, từ đó các Ngài kéo người khác ra khỏi vũng bùn lầy.
7/
Thời đó, y phục, đồ ăn thức uống, các tiện nghi để làm việc và sinh
hoạt trong xã hội rất đơn giản, bình dị. Dân cư phần lớn tâm tánh hiền
hòa chất phác. Dù vậy Thế Tôn vẩn luôn cảnh tỉnh, nhắc nhở các đệ tử về
những ảnh hưởng, những tác động xấu từ mội trường chung quanh. Các vị
Tỷ-kheo thời bấy giờ thường là những vị có thiện căn, nhưng vẩn có những
trường hợp các vị bị chi phối, bị nhiếp phục bởi những cám dổ từ đời
sống thế tục.
Các vị ấy đã có lối sống đầy đủ, lười biếng ( luôn tìm cách
hưởng thụ về ăn, mặc, ngủ nghỉ, không chân chánh thực hiện hạnh tri túc
thiểu dục, ăn một buổi với ba y một bình bát ) dẩn đầu về đọa lạc
(sống với tiện nghi vật chất đẹp đẻ, tráng lệ, sang trọng xa hoa, cầu kỳ,
với sự quan liêu, quan cách, xa cách, luôn bên mình kẽ hầu người hạ,
cung phụng đủ điều ), bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly ( không nổ
lực siêng năng, chuyên cần, tinh cần, tinh tấn trong thực hành giáo pháp).
Ngày
nay, văn minh tiêu thụ đã tạo ra biết bao phương tiện, tiện nghi vật
chất để nhằm hưởng thụ, thỏa mản tối đa đầy đủ tất cả sáu giác quan. Có
thể dể dàng tìm thấy các phương tiện với nhiều loại hình để hưởng thụ
tại bất cứ nơi đâu kể cả tại các làng mạc xa xôi hẻo lánh. Thế nên, hôm
nay dù các phương tiện trợ duyên cho việc tu tập, thực hành giáo pháp rất
đầy đủ, rất tiện nghi. Ngày càng có nhiều nhiều tự viện, trường lớp uy
nga, rộng lớn được xây dựng, rất nhiều kinh sách, băng dĩa được in ấn
phát hành, rất nhiều lễ hội được tổ chức hoành tráng. Nhưng những
trở ngại cho việc tu tập lại không ít, các cám dổ ngày lại càng nhiều
hơn và những âu lo phiền nảo cứ ngày càng phát triển chồng chất không
bao giờ thuyên giảm.
Chánh Pháp luôn đúng trong không và thời gian, Chánh Pháp không thuộc về
hữu vi. Chánh Pháp đã, đang được thể hiện trong cuộc sống, Chánh Pháp đã
và đang tồn tại trong tâm hồn, trong lý trí của những người Phật tử chơn
chính. Họ là những người hạnh phúc đích thực, là những người luôn nghĩ
và hành động vì lợi ích và hạnh phúc của người khác. Do bởi họ không còn
khao khát, mong cầu, không còn thiếu thốn, bởi trong họ không bóng dáng
của tự ngã.
Chánh Pháp không thể thay đổi, không thể biến đổi để thích nghi,
thích ứng với các giai đoạn lịch sử, với thực tế xã hội. Như thế
sẽ không phải là Chánh Pháp. Mà ngược lại, chỉ có xã hội hiện
tại cần phải thay đổi, cần phải biến đổi, hay đúng hơn là các thành tố
của xã hội là con người cần phải thay đổi, cần phải biến đổi để có khả
năng thực hiện chơn chánh Chánh Pháp, để Chánh Pháp đến với chính mình.
Chỉ có tâm hồn con người cần phải được chuyển đổi, được chuyển hóa
để nhận thức đúng, để thực hành, thực hiện đúng với Chánh Pháp để đưa
đến Hạnh phúc thật sự ngay trong hiện tại, trong đời nầy và trong tương
lai.
Chánh
Pháp luôn tồn tại sinh động nơi những người con Phật, những người Thừa
tự Pháp.
So sánh như trên, để thấy lời dạy của Đức Thế Tôn về thừa tự pháp và
thừa tự tài vật thật vô cùng ý nghĩa, thật vô cùng cần thiết để được
nghiên cứu được tìm hiểu và áp dụng trong hiện tại, đây là việc làm vô
cùng hữu ích, có giá trị thiết thực cho sự duy trì, gìn giữ và phát
triển giáo pháp hay “ Thừa tự pháp” theo đúng lời dạy của Thế Tôn.
8/
Con đường trung đạo tức con đường Thánh tám ngành tức Bát chánh đạo là
phương pháp cơ bản và là nền tảng để diệt trừ tham, sân, si và các biểu
hiện, các trạng thái của tham, sân, si khiến tịnh nhản sanh, chân trí
sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niệt bàn.
Bảy
phương pháp đoạn trừ các lậu hoặc trong bài kinh số 2 thuộc về con đường
Thánh tám ngành.
Mùa Phật Đản
TP.HCM, 01/4/2009
Nguyên Nghĩa
*Trần
Phương Lan. ( dịch ) ( 2000 ). Đức Phật lịch sử, NXB TP. HCM