- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 8b
- (IX) (19) A-TU-LA PAHÀRÀDA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Veranjà, dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi vua A-tu-la Pahàràda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với
vua A-tu-la Pahàràda đang đứng một bên :
- Này Paràhàda, có phải các A-tu-la
thích thú biển lớn ?
- Bạch Thế Tôn, các A-tu-la thích
thú biển lớn.
- Này Paràhàda, có bao nhiêu sự vi
diệu trong biển lớn mà do chúng thấy, các A-tu-la thích thú biển lớn ?
- Bạch Thế Tôn, có tám vi diệu chưa
từng có trong biển lớn mà do chúng thấy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
Thế nào là tám ?
2. Bạch Thế Tôn, biển lớn tuần
tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có
thình lình như một vực thẳm. Vì rằng bạch Thế Tôn, vì rằng biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không
có thình lình như một vực thẳm, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa
từng có thứ nhất, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Vì rằng bạch Thế Tôn, biển
lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu
chưa từng có thứ hai, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển
lớn.
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập
tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền, nên bạch Thế Tôn, đây
là vi diệu chưa từng có thứ ba, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la
thích thú biển lớn.
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm
có các con sông lớn nào, ví như sông hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì,
sông Sarabhù, Sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên
họ cũ trở thành biển lớn. Vì rằng, phàm có các con sông lớn nào, ví
như sông Hằng … trở thành biển lớn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu
chưa từng có thứ tư, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển
lớn.
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm
có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước
mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi
có đầy. Bạch Thế Tôn, vì rằng, phàm có những dòng nước gì ở đời
chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng
không vì vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy, bạch Thế Tôn, đây
là vi diệu chưa từng có thứ năm, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la
thích thú biển lớn.
7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn chỉ có một vị là vị mặn. Vì rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn chỉ
có một vị là vị mặn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có
thứ năm, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
8. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu
này, như chân trâu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc,
vàng, ngọc đỏ, mã não, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ
bảy, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
9. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển
lớn là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh
như các con Timi, Timingalà, Timiramingalà, những loại Asurà (A-tu-la), các loại
Nàgà, các loại Gandhabbà. Trong biển có những loài hữu tình do tự ngã
dài một trăm do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do tuần. Vì rằng,
bạch Thế Tôn, biển lớn là trú xứ các loài chúng sanh lớn … năm trăm
do tuần, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám, do thấy
vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. Nhưng bạch Thế Tôn, các
Tỷ-kheo có thích thú trong Pháp và Luật này ?
- Này Pahàràda, Tỷ-kheo có thích
thú trong Pháp và Luật này.
- Bạch Thế Tôn, trong Pháp và Luật
này có bao nhiêu pháp vi diệu chưa từng có mà do thấy chúng, các Tỷ-kheo
thích thú trong pháp và luật này ?
10. - Này Pahàràda, có tám pháp vi
diệu này chưa từng có trong Pháp và Luật mà do thấy chúng, các Tỷ-kheo
thích thú trong pháp và luật này. Thế nào là tám ?
11. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không
có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy, này Pahàràda, trong Pháp và Luật
này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con
đường là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể chấp
chánh trí thình lình. Này Pahàràda, vì rằng trong pháp và luật này, các học
pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần
tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể chấp chánh trí thình
lình, nên này Pahàràda, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất do mà do
thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
12. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Cũng vậy, này Pahàràda, khi các học
pháp được ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của ta, dầu cho vì
nhân sinh mạng, cũng không vượt qua, nên này Pahàràda, trong Pháp và Luật
này, đây là vi diệu chưa từng có thứ hai do mà do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
13. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức
bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Cũng vậy, này Pahàràda, người
nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những
hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không phải
sống Phạm hạnh nhưng tự nhận có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy
tham dục, tánh tình bất tịnh. Chúng Tăng không sống chung với người ấy,
lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy
có ngồi giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng và
chúng Tăng sống xa người ấy. Vì rằng, này Pahàràda, người ấy là ác
giới, theo ác pháp, … tánh tình bất tịnh … và chúng Tăng sống xa vị
ấy, nên này Pahàràda, trong pháp và luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng
có thứ ba mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và
Luật này.
14. Ví như, này Pahàràda, phàm có
các con sông lớn nào, ví như sông hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì, sông
Sarabhù, Sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ
cũ trở thành biển lớn. Cũng vậy, này Pahàràda, có bốn giai cấp : Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ gia đình, xuất gia trong Pháp
và Luật được Như Lai tuyên bố, họ từ bỏ tên và họ của họ từ trước,
và họ trở thành những Sa-môn Thích tử. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật
này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tư mà do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
15. Ví như, này Pahàràda, phàm có
những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước
mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi
có đầy. Cũng vậy, này Pahàràda, nếu có nhiều Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn
giới không có dư y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi
có đầy. Này Pahàràda, nếu có nhiều vị Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới
không có dư y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có
đầy. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng
có thứ năm mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp
và Luật này.
16. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật cũng chỉ có
một vị là vị giải thoát. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là
pháp vi diệu chưa từng có thứ sáu mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
thích thú trong Pháp và Luật này.
17. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này,
như chân trâu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc
đỏ, mã não. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật này có nhiều châu
báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm
xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi,
Thánh đạo tám ngành. Này Pahàràda, vì rằng Pháp và Luật này có nhiều
châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn
niệm xứ …, Thánh đạo tám ngành, nên này Pahàràdan, trong Pháp và Luật
này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ bảy mà do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
18. Ví như, này Pahàràda, biển lớn
là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh như các
con Timi, Timingalà, Timiramingalà, những loại Asurà (A-tu-la), các loại Nàgà,
các loại Gandhabbà. Trong biển có những loài hữu tình do tự ngã dài một
trăm do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do tuần. Cũng vậy, này
Pahàràda, Pháp và Luật là trú xứ của các loài chúng sanh lớn. Ở đấy
có x loại chúng sanh này : bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến chứng ngộ
Dự lưu quả, bậc Nhất Lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Nhất lai quả,
bậc Bất lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Bất lai quả, bậc A-la-hán,
bậc đã hướng đến chứng ngộ quả A-la-hán. Này Pahàràda, vì rằng
Pháp và Luật này là trú xứ của các loại chúng sanh lớn. Ở đấy có những
chúng sanh này … quả A-la-hán. Này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây
là pháp vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
thích thú trong Pháp và Luật này.
Này Pahàràda, đây là tám pháp vi
diệu, chưa từng có trong pháp và luật và do thấy vậy, do thấy vậy, các
Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
(X)(20) NGÀY TRAI GIỚI
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Đông viên, chỗ lâu đài mẹ Migàra. Lúc bấy giờ Thế
Tôn, nhân ngày trai giới, đang ngồi, có chúng Tăng đoanh vây. Rồi Tôn giả
Ananda, khi đêm đã gần mãn, và canh một đã qua, từ chỗ ngồi, đứng dậy,
đắp y thượng vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế
Tôn :
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh một đã qua, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
Khi được nói vậy, Thế Tôn giữ
im lặng.
2. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi
đêm đã gần mãn, và canh giữa đã qua, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp
y thượng vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh hai đã qua, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
3. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi
đêm đã gần mãn, và canh cuối đã qua, rạng đông đã khởi, mặt đêm đã
sáng rõ, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp y thượng vào một bên vai, chắp
tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh hai đã qua, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo.
- Này Ànanda, hội chúng không được
thanh tịnh.
4. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna suy
nghĩ như sau : "Đề cập đến người nào, Thế Tôn đã nói : "Này
Ànanda, hội chúng không được thanh tịnh " ? . Rồi Tôn giả
Mahàmoggallàna, với tâm của mình, chú tâm tác ý đến toàn thể chúng Tỷ-kheo
Tăng, Tôn giả thấy một người ấy là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất
tịnh, đáng nghi ngờ, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng
tự nhận là Sa-môn, không phải sống Phạm hạnh nhưng tự nhận là sống
Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh,
đang ngồi giữa chúng Tỷ-kheo ; thấy vậy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đi đến người ấy, sau khi đến, nói với người ấy :
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy.
Thế Tôn đã thấy Ông. Đối với Hiền giả, không thể chung sống với
các Tỷ-kheo.
- Được nói như vậy, người ấy
im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả Mahàmoggallàna nói với người ấy :
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy.
Thế Tôn đã thấy Ông. Đối với Hiền giả, không thể chung sống với
các Tỷ-kheo.
Lần thứ hai, người ấy im lặng.
Lần thứ ba, Tôn giả Mahàmoggallàna nói với người ấy :
- Này Hiền giả, hãy đứng dậy.
Thế Tôn đã thấy Ông. Đối với Hiền giả, không thể chung sống với
các Tỷ-kheo.
Lần thứ ba, người ấy im lặng.
5. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna nắm
lấy cánh tay người ấy, đẩy ra khỏi cửa, đóng chốt cửa lại, rồi
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, người ấy đã bị
con đuổi ra khỏi. Hội chúng đã thanh tịnh. Bạch Thế Tôn, hãy thuyết giới
bổn cho chúng Tỷ-kheo.
- Thật vi diệu thay, này
Mahàmoggallàna ! Thật hy hữu thay, này Mahàmoggallàna ! Cho đến khi bị nắm
tay, kẻ ngu sĩ kia mới đi.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy
hành trì Uposatha (Bố-tát), hãy đọc giới bổn. Bắt đầu từ nay, này
các Tỷ-kheo, Ta sẽ không đọc giới bổn. Này các Tỷ-kheo, không có sự
kiện, không có cơ hội rằng Như Lai có thể đọc giới bổn trong một hội
chúng không thanh tịnh.
7. Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn
có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Asurà (A-tu-la) thích thú biển lớn. Thế nào là tám ?
Này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự
xuôi, tuần tự thuận hướng … (như trên 19, từ số 2 đến số 9) … Này
các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy
vậy, các Asurà (A-tu-la) thích thú biển lớn.
Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn
có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Asurà thích thú biển lớn.
8. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong
Pháp và Luật này có tám pháp vi diệu chưa từng có này mà do thấy vậy,
thấy vậy, các Asurà thích thú Pháp và Luật này. Thế nào là tám ?
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng … (như trên 19 số 11 với
những thay đổi cần thiết ) … Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này,
đây là vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
hoan hỷ trong Pháp và Luật này.
Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật
này, có tám vi diệu, chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo
hoan hỷ trong Pháp và Luật này.
*
* *
III. PHẨM GIA CHỦ
(I)(21) UGGA Ở VESÀLI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàli, tại Đại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Tại đấy, Thế Tôn bảo
các Tỷ-kheo :
- "Này các Tỷ-kheo ! ". -
"Bạch Thế Tôn ".
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
2. - Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga,
người Vesàli, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có. Các Thầy hãy thọ
trì như vậy.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy
xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
3. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi
sáng, cầm bát y, đi đến trú xá của gia chủ Ugga người Vesàli ; sau khi
đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Ugga người
Vesàli, đi đến Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi
xuống một bên. Tỷ-kheo ấy nói với gia chủ Ugga, người Vesàli, đang ngồi
xuống một bên :
4. - Này gia chủ, Thế Tôn có nói rằng
: " Gia chủ Ugga người Vesàli Này, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng
có". Này gia chủ, thế nào là tám pháp vi diệu chưa từng có ấy, mà
Thế Tôn nói gia chủ là người được thành tựu ?
- Thưa Tôn giả, tôi không biết Thế
Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có là gì. Nhưng
thưa Tôn giả, tôi có tám pháp vi diệu chưa từng có này, hãy lắng nghe
và khéo tác ý, tôi sẽ nói :
- Vâng, này gia chủ.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp gia chủ Ugga
người Vesàli. Gia chủ Ugga người Vesàli nói như sau :
5. - Thưa Tôn giả, khi tôi lần đầu
tiên chỉ từ xa thấy Thế Tôn thôi, thưa Tôn giả, chỉ thấy Thế Tôn
thôi, tâm tôi được định tín. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu thứ
nhất, được có ở nơi tôi. Rồi thưa Tôn giả, với tâm định tín ấy,
tôi hầu hạ Thế Tôn. Thế Tôn thuyết pháp thuận thứ cho tôi, như thuyết
về bố thí, thuyết về giới, thuyết về cõi Trời, nói đến sự nguy hại,
hạ liệt, nhiễm ô của các dục và sự lợi ích của viễn ly.
6. Khi Thế Tôn biết tôi tâm đã sẵn
sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm
được hoan hỷ, Thế Tôn mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương
đề cao : "Khổ, Tập, Diệt, Đạo". Cũng như một tấm vải thuần
bạch, các chấm đen được gột rửa, rất dễ thấm màu nhuộm. Cũng vậy,
chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên nơi tôi :
"Phàm pháp gì được tập khởi, tất cả Pháp ấy đều bị đoạn diệt".
Rồi thưa Tôn giả, khi tôi thấy pháp, đạt pháp, biết pháp, thể nhập
vào pháp, nghi ngờ được vượt qua, do dự trù diệt, đạt được vô sở
úy, không ý cứ người khác đối với pháp bậc Đạo sư. Tại đấy, tôi
quy y Phật, quy y Pháp và chúng Tăng, tôi thọ lãnh năm học pháp về Phạm
hạnh. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu thứ hai, được có ở nơi tôi.
7. Thưa Tôn giả, tôi có bốn vợ
đều còn trẻ tuổi. Rồi tôi đi đến các người vợ ấy ; sau khi đến,
tôi nói với các người vợ ấy như sau : "Này các vị, tôi đã thọ
lãnh năm học pháp về Phạm hạnh. Ai muốn, hãy hưởng thọ tài sản ở
chỗ này, hay làm các công đức, hay đi đến gia đình bà con của mình, hay
ai có ưng ý người đàn ông nào, tôi sẽ cho các vị". Được nói như
vậy, thưa Tôn giả, người vợ lớn của tôi nói với tôi : "Thưa gia
chủ Ugga, hãy cho tôi người đàn ông tên này". Rồi thưa Tôn giả,
tôi cho mời người ấy lại, với tay trái tôi cầm người vợ, với tay phải
tôi cầm bình nước, rồi tôi rửa sạch người ấy. Thưa Tôn giả, từ
khi bỏ người vợ trẻ, tâm tôi không có một chút đổi khác. Thưa Tôn giả,
đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ ba, được có ở với tôi.
8. Thưa Tôn giả, có những tài sản
ở trong gia đình tôi, chúng được phân chia giữa những người có giới
và những người tốt lành. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng
có thứ tư, được có ở với tôi.
9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo,
tôi hầu hạ rất cản thận, không phải không cản thận. Thưa Tôn giả,
đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ năm, được có ở với tôi.
10. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả ấy
thuyết pháp cho tôi, tôi nghe hết sức cẩn thận, không phải không cẩn thận.
Nếu Tôn giả ấy không thuyết pháp cho tôi, thời tôi thuyết pháp cho vị
ấy. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ sáu, được có
ở nơi tôi.
11. Thật không phải là vi diệu, thưa
Tôn giả, chư Thiên sau khi đến, bảo tôi : "Này gia chủ, Pháp được
Thế Tôn khéo thuyết giảng ! ". Khi được nói vậy, thưa Tôn giả,
tôi nói với chư Thiên ấy như sau : "Dầu cho chư Thiên các người có
nói như vậy hay không nói như vậy, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng
". Thưa Tôn giả, tuy vậy tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy,
nghĩa là : "Chư Thiên đến với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên".
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ bảy, được có
ở nơi tôi.
12. Thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết
sử này được Thế Tôn thuyết giảng, tôi thấy rõ không có một pháp
nào không được đoạn tận ở nơi tôi. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu,
chưa từng có thứ tám, được có ở nơi tôi.
Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa
từng có này có mặt. Nhưng tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu
tám pháp vi diệu chưa từng có nào ?
13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận
đồ ăn khất thực tại trú xứ của gia chủ Ugga, người Vesàli, từ chỗ
ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường
khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem tất cả câu
chuyện nói với Tôn giả Ugga người Vesàli thuật lại với Thế Tôn.
14. Lành thay, lành thay ! này Tỷ-kheo,
gia chủ Ugga người Vesàli nếu có trả lời một cách chơn chánh, có thể
trả lời như vậy. Này Tỷ-kheo, ta đã nói gia chủ Ugga người Vesàli
thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng
gia chủ Ugga, người Vesàli, được thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng
có này.
(II)(22) UGGA NGƯỜI HATTHIGÀMA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Vajji, tại làng Hatthi. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo …
(như 21 số 1) … Thế Tôn nói như sau :
2. - Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga,
người Vesàli, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có. Các Thầy hãy thọ
trì như vậy.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy
xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
3-4. … (như 21, số 3 - 4 kinh trước,
với các sửa đổi cần thiết ) …
5. - Thưa Tôn giả, khi tôi còn vui
chơi ở rừng Nàga, lần đầu tiên, tôi thấy Thế Tôn từ đằng xa. Chỉ
thấy Thế Tôn thôi, thưa Tôn giả, tâm tôi được tịnh tín, và say rượu
được đoạn tận. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ
nhất, được có ở nơi tôi. Rồi thưa Tôn giả, với tâm tịnh tín ấy,
tôi hầu hạ Thế Tôn. Rồi Thế Tôn thuyết pháp thuận thứ cho tôi như
thuyết pháp về bố thí, thuyết về giới, thuyết về cõi trời, nói lên
sự nguy hại, sự hạ liệt, nhiễm ô của các dục và sự lợi ích của
viễn ly.
6 - 8. (Pháp vi diệu thứ hai, thứ
ba, thứ tu giống như 21, số 6, số 7, số 8 trước với những thay đổi cần
thiết) … chưa từng có thứ tư, được có ở nơi tôi.
9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo,
tôi hầu hạ rất cản thận, không phải không cản thận. Thưa Tôn giả, nếu
Tôn giả ấy thuyết pháp cho tôi, tôi nghe hết sức cẩn thận, không phải
không cẩn thận. Nếu Tôn giả ấy không thuyết pháp cho tôi, thời tôi
thuyết pháp cho vị ấy. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có
thứ năm, được có ở tôi.
10. Thật không phải là vi diệu, thưa
Tôn giả, khi tôi mời chúng Tăng, chư Thiên đến và bảo tôi : "Này
gia chủ, Tỷ-kheo này là vị câu phần giải thoát ; Tỷ-kheo này là vị Tuệ
giải thoát ; Tỷ-kheo này là vị Thần chứng ; Tỷ-kheo này là vị Kiến
chí ; Tỷ-kheo này là vị Tín giải thoát ; Tỷ-kheo này là vị Tùy pháp
hành ; Tỷ-kheo này là vị Tùy tín hành ; vị này giữ giới, theo thiện
pháp ; vị này phá giới, theo ác pháp ". Nhưng khi tôi cúng dường chúng
Tăng, tôi không cảm thấy có tâm như vậy khởi lên : "Vị này tôi
cúng ít" hay "Vị này tôi cúng nhiều". Nhưng thưa Tôn giả,
tôi cúng với tâm bình đẳng. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng
có thứ sáu, được có ở tôi.
11. Thật không phải là vi diệu, thưa
Tôn giả, chư Thiên sau khi đến, bảo tôi : "Này gia chủ, Pháp được
Thế Tôn khéo thuyết giảng ! ". Khi được nói vậy, thưa Tôn giả,
tôi nói với chư Thiên ấy như sau : "Dầu cho chư Thiên các người có
nói như vậy hay không nói như vậy, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng
". Thưa Tôn giả, tuy vậy tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy,
nghĩa là : "Chư Thiên đến với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên".
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ bảy, được có
ở nơi tôi.
12. Thưa Tôn giả, nếu tôi mệnh
chung trước Thế Tôn, đây không có gì là vi diệu, nếu Thế Tôn nói về
tôi như sau : "Không có một kiết sử nào, do kiết sử ấy, gia chủ
Ugga người làng Hatthigàma có thể trở lui lại đời này". Thưa Tôn giả,
đây là pháp vi diệu thứ tám được có ở nơi tôi.
Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa
từng có này có mặt. Và tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu
tám pháp vi diệu chưa từng có nào.
13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận
đồ ăn khất thực tại trú xứ của gia chủ Ugga, người làng Hatthigàma,
từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên
con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem
tất cả câu chuyện nói với Tôn giả Ugga người Hatthigàma thuật lại với
Thế Tôn.
14. Lành thay, lành thay ! này Tỷ-kheo,
gia chủ Ugga người Hatthigàma nếu có trả lời một cách chơn chánh, có thể
trả lời như vậy. Này Tỷ-kheo, ta đã nói gia chủ Ugga người Hatthigàma
thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng
gia chủ Ugga, người Hatthigàma, được thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng
có này.
(III)(23) HATTHAKA, NGƯỜI ÀLAVÌ (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Àlavì, tại điện Phật Aggàlava. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
2. - Này các Tỷ-kheo, Hatthaka, người
xứ Àlavì ; có giới, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì ; có
lòng xấu hổ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì ; có lòng sợ
hãi, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì ; nghe nhiều, này các Tỷ-kheo,
là Hatthaka người xứ Àlavì ; có bố thí, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người
xứ Àlavì ; có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì.
Thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng
có này, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì. Hãy thọ trì như vậy.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc Thiên Thệ từ chỗ ngồi đứng
dậy đi vào tịnh xá.
3. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi
sáng, cầm bát y, đi đến trú xá của gia chủ Hatthaka người Àlavì ; sau
khi đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Hatthaka
người Àlavì, đi đến Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi
ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy nói với Hatthaka, người xứ Àlavì,
đang ngồi xuống một bên :
- Thưa Hiền giả, Thế Tôn đã nói
Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có. Thế nào là bảy ?
"Có lòng tin, này các Tỷ-kheo là Hatthaka, người xứ Àlavì … có giữ
giới … có lòng xấu hổ … có lòng sợ hãi … nghe nhiều … có bố thí
… có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka, người xứ Àlavì ". Thưa
Hiền giả, Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này như
Thế Tôn đã nói.
- Thưa Tôn giả, ở đây không có
người gia chủ bận áo trắng ?
- Thưa Hiền giả, ở đây không có
người gia chủ bận áo trắng.
- Lành thay, ở đây không có người
gia chủ bận áo trắng.
5. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ
ăn khất thực tại trú xứ của Hatthaka, người xứ Àlavì, từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường khất
thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn :
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào
buổi sáng đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của Hatthaka, người Àlavì
; sau khi đến, con ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, Bạch Thế Tôn, rồi
con nói với Hatthaka, người xứ Àlavì đang ngồi một bên : - "- Thưa
Hiền giả, Thế Tôn đã nói Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng
có. Thế nào là bảy ? "Có lòng tin, này các Tỷ-kheo là Hatthaka, người
xứ Àlavì … có giữ giới … có lòng xấu hổ … có lòng sợ hãi …
nghe nhiều … có bố thí … có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka, người
xứ Àlavì ". Hiền giả thành tựu bảy pháp này, thưa Hiền giả, như
Thế Tôn đã nói ! ". Khi nghe nói như vậy, bạch Thế Tôn, Hatthaka người
xứ Àlavì nói với con :
- "Thưa Tôn giả, ở đây không
có người gia chủ bận áo trắng ? "
- Thưa Hiền giả, ở đây không có
người gia chủ bận áo trắng.
- Lành thay, ở đây không có người
gia chủ bận áo trắng.
6. - Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo
! Này Tỷ-kheo, thiện nam tử này là ít dục. Vị ấy không muốn các thiện
pháp của mình được người khác biết đến. Do vậy, này Tỷ-kheo, hãy thọ
trì rằng, Hatthaka người xứ Àlavì, có thành tựu bảy pháp vi diệu chưa
từng có này, tức là ít dục.
(IV)(24) HATTHAKA, NGƯỜI XỨ ÀLAVÌ
(2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Àlavì, tại điện Phật Aggàlava. Rồi Hatthaka, người xứ Àlavì cùng với
năm trăm nam cư sĩ đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi
ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Hatthaka, người xứ Àlavì, đang ngồi
xuống một bên :
2. - Này Hatthaka, hội chúng này thật
lớn. Làm sao, này Hatthaka, Ông thâu nhiếp được hội chúng này ?
- Bạch Thế Tôn, có bốn nhiếp
pháp này được Thế Tôn thuyết giảng. Con thâu nhiếp hội chúng này với
những nhiếp pháp ấy. Bạch Thế Tôn, khi con biết rằng : "Người này
cần phải thâu nhiếp nhờ có bố thí", thời con thâu nhiếp người
ấy với bố thí. Khi con biết rằng : "Người này cần phải thâu nhiếp
nhờ ái ngữ", thời con thâu nhiếp người ấy với ái ngữ. Khi con biết
rằng : "Người này cần phải thâu nhiếp nhờ lợi hành", thời
con thâu nhiếp người ấy với lợi hành. Khi con biết rằng : "Người
này cần phải thâu nhiếp nhờ đồng sự", thời con thâu nhiếp người
ấy với đồng sự. Vả lại, bạch Thế Tôn, trong gia đình con có tài sản,
họ nghĩ rằng như vậy không thể được nghe như là một người bần cùng.
3. - Lành thay, lành thay, này Hatthaka
! Đây là nguyên lý đế thân nhiếp đại chúng ! Này Hatthaka, những ai
trong quá khứ đã thâu nhiếp đại chúng, tất cả đều thâu nhiếp đại
chúng với bốn nhiếp pháp này. Này Hatthaka, những ai trong tương lai sẽ thâu
nhiếp đại chúng, tất cả sẽ thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp
pháp này. Này Hatthaka, những ai trong hiện tại thâu nhiếp đại chúng, tất
cả họ đều thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp này.
4. Rồi Hatthaka, người xứ Àlavì,
được Thế Tôn với pháp thoại, giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi,
làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu
hướng về Ngài, rồi ra đi. Thế Tôn, sau khi Hatthaka, người xứ Àlavì ra
đi không bao lâu, bèn gọi các Tỷ-kheo :
5. - Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì
rằng Hatthaka, người xứ Àlavì ; có giữ giới ; này các Tỷ-kheo, là
Hatthaka người xứ Àlavì ; có lòng xấu hổ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka
người xứ Àlavì ; có lòng sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ
Àlavì ; nghe nhiều, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì ; có bố
thí, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì ; có trí tuệ, này các
Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì ; ít dục, này các Tỷ-kheo, là
Hatthaka người xứ Àlavì !
Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng
Hatthaka, người xứ Àlavì có thành tựu tám ở đây vi diệu chưa từng có
này.
(V) (25) THÍCH TỬ MAHÀNÀMA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha. Rồi Thích tử
Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Thích tử Mahànàma bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, cho đến như thế
nào là người nam cư sĩ ?
- Này Mahànàma, khi nào quy y Phật,
quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy là người nam cư sĩ.
2. - Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là người nam cư sĩ giữ giới ?
- Này, Mahànàma, khi nào người nam
cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong
các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắp say rượu men, rượu nấu, cho đến
như vậy, là người nam cư sĩ giữ giới.
3. - Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là người nam cư sĩ thực hành, vì tư lợi chứ không vì lợi tha ?
- Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ thành
tựu lòng tin cho mình, không có khích lệ người khác thành tựu lòng tin ;
thành tựu giữ giới cho mình ; thành tựu bố thí cho mình ; không khích lệ
người khác thành tựu bố thí ; muốn tự mình đi đến yết kiến các Tỷ-kheo
; chỉ tự mình muốn nghe diệu pháp, không khích lệ người khác nghe diệu
pháp, tự mình thọ trì những pháp đã được nghe ; không khích lệ người
khác thọ trì những pháp đã được nghe ; tự mình suy nghĩ đế ý nghĩa các
pháp đã thọ trì ; không khích lệ người khác suy nghĩ đế ý nghĩa các
pháp đã thọ trì ; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện tùy
pháp, đúng Chánh pháp, không khích lệ người khác thực hiện tùy pháp, đúng
Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thực hành vì tự
lợi, không phải vì lợi tha.
4. - Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là nam cư sĩ thực hành vừa tự lợi, vừa lợi tha ?
- Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự
mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin ; khi
nào tự mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới ; khi nào tự
mình bố thí và khích lệ người khác bố thí ; khi nào tự mình muốn đi
đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến
các Tỷ-kheo ; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác
nghe diệu pháp ; khi nào tự mình trì những pháp đã được nghe và khích lệ
người khác thọ trì những pháp đã được nghe ; khi nào tự mình suy nghĩ
đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ đế
ý nghĩa các pháp đã thọ trì ; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực
hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết
pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma,
là nam cư sĩ thực hành vì tự lợi và lợi tha.
(VI) (26)JÌVAKA KOMÀRABHACCA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương xá), tại rừng xoài Jìvaka. Rồi Jìvaka Komàrabhacca đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Jìvaka Komàrabhacca bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, cho đến như thế
nào là người nam cư sĩ ?
- … giống như kinh trước 25, chỉ
khác là thích tử Mahànàma, nay là Jìvaka Komàrabhacca )
(VII) (27) SỨC MẠNH (1)
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám sức mạnh
này. Thế nào là tám ?
2. Này các Tỷ-kheo, sức mạnh của
con nít là khóc ; sức mạnh của con đàn bà là phẫn nộ ; sức mạnh của
người ăn trộm là vũ khí ; sức mạnh của các vua chúa là uy quyền ; sức
mạnh của kẻ ngu là áp đảo ; sức mạnh của bậc Hiền trí là cảm hóa
; sức mạnh của vị nghe nhiều là thẩm sát ; sức mạnh của Sa-môn,
Bà-la-môn là nhẫn nhục.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám sức
mạnh.
(VIII) (28) SỨC MẠNH (2)
1. Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên :
- Này Sàriputta, có bao nhiêu sức mạnh
của Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc. Thành tựu với những sức mạnh
gì, Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt
các lậu hoặc : "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ". Thế nào
là tám ?
2. - Bạch Thế Tôn, có tám sức mạnh
của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc. Thành tựu với những sức mạnh
gì, Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt
các lậu hoặc : "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận "
3. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
đã đoạn tận các lậu hoặc khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng
tất cả các hành là vô thường. Vì rằng, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn
tận các lậu hoặc, khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng tất cả
các hành là vô thường. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc : "Các lậu hoặc
đã được ta đoạn tận ".
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
đã đoạn tận các lậu hoặc khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng
các dục ví như hố than hừng. Vì rằng, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn
tận các lậu hoặc khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng các dục
ví như hố than hừng. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc : "Các lậu hoặc
đã được ta đoạn tận ".
5. Này các Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn,
Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, với tâm thuận xuôi về viễn ly,
hoan hỷ về xuất ly, thiên về viễn ly, trú ở viễn ly, hoan hỷ về xuất
ly, đoạn tận hoàn toàn tất cả pháp có thể làm trú xứ cho lậu hoặc.
hừng. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các
lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tự
nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc : "Các lậu hoặc đã được
ta đoạn tận ".
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
đã đoạn tận các lậu hoặc, Bốn niệm xứ được tu tập. Bạch Thế Tôn,
vì rằng Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, Bốn niệm xứ được tu tập,
được khéo tu tập. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của vị Tỷ-kheo
… : "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ".
7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
đã đoạn tận các lậu hoặc, Bốn như ý túc được tu tập, được khéo
tu tập… Năm căn được tu tập, được khéo tu tập … Năm lực được
tu tập, được khéo tu tập … Bảy giác chi được tu tập, được khéo tu
tập …Thánh đạo tám ngành được tu tập, được khéo tu tập … Bạch
Thế Tôn, đây là sức mạnh của vị Tỷ-kheo … : "Các lậu hoặc đã
được ta đoạn tận ".
Bạch Thế Tôn, đây là tám sức mạnh
của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu với tám sức mạnh
này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc :
"Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận ".
(IX) (29) KHÔNG PHẢI THỜI
1. - "Làm việc đúng thời là
thế giới, làm việc đúng thời là thế giới ", này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu nói như vậy, nhưng vị ấy không biết đúng thời và phi
thời. Này các Tỷ-kheo, có tám phi thời, phi thời tiết cho đời sống Phạm
hạnh. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như
Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân sư,
Phật, Thế Tôn. Và pháp được giải đưa đến an tịnh, đưa đến tịch
tịnh, đưa đến giác ngộ, được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người này
lại bị sanh vào địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời, phi thời
tiết thứ nhất cho đời sống Phạm hạnh.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác … Phật, Thế Tôn
và pháp được giải đưa đến an tịnh, đưa đến tịch tịnh, đưa đến
giác ngộ, được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người này lại bị sanh
vào loại bàng sanh … người này lại bị sanh vào cõi ngạ quỷ … người
này lại bị sanh vào giữa chư Thiên có thọ mạng lâu dài … người này
lại bị sanh vào các biên địa, giữa những kẻ vô trí mọi rợ, tại đây,
không có hướng đi cho các Tỷ-kheo, cho các Tỷ-kheo -Niganthà, cho nam cư
sĩ, nữ cư sĩ … và người này được sanh vào chánh địa, nhưng lại có
tà kiến, có tri kiến đảo ngược : "Không có bố thí, không có lễ
hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục, các nghiệp thiện ác,
không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không
có hóa sanh, ở đời không có những Sa-môn, những Bà-la-môn chánh hướng
chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ ở đời này, đời khác và
truyền dạy lại … " và người này được sanh vào đây chánh địa,
nhưng người ấy lại ác tuệ, si mê, câm điếc, không có thể hiểu rõ ý
nghĩa của một lời nói khéo, nói hay, nói dở. Này các Tỷ-kheo, đây là
phi thời, phi thời tiết thứ tám cho đời sống Phạm hạnh.
4. Này các Tỷ-kheo, có tám phi thời,
phi thời tiết này cho đời sống Phạm hạnh.
5. Này các Tỷ-kheo, chỉ có một
chánh thời, một chánh thời tiết này cho đời sống Phạm hạnh. Thế nào
là một ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thế
Tôn xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân sư, Phật, Thế Tôn. Và pháp được giải đưa đến an tịnh, đưa đến
tịch tịnh, đưa đến giác ngộ, được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người
này được sanh vào chánh địa, vị ấy có trí tuệ, không si mê, không
câm điếc, có thể hiểu rõ ý nghĩa của một lời nói khéo, nói hay, nói
dở. Này các Tỷ-kheo, đây là chánh thời, chánh thời tiết độc nhất cho
đời sống Phạm hạnh.
Ai được sanh làm người
Khi diệu pháp được giảng
Lại không nắm được thời
Họ vượt qua khỏi thời
Nhiều phi thời được nói
Làm chướng ngại con người
Chỉ năm khi mười họa
Như Lai hiện ở đời
Được giáp mặt với Ngài
Rất khó được ở đời
Được sanh ra làm người
Và diệu pháp được giảng
Vừa đủ để tinh tấn
Với ai muốn lợi ích
So biết rõ diệu pháp
Lại để thời vượt qua !
Kẻ để thời gian qua
Sầu muộn tại địa ngục
Ở đây ai bỏ rơi
Quyết định tánh diệu pháp
Như kẻ buôn mất của
Sẽ sầu não lâu ngày
Người vô minh bao phủ
Vi phạm đến diệu pháp
Phải chịu đựng lâu ngày
Lưu chuyển trong sanh tử
Ai được sanh làm người
Trong thời pháp khéo giảng
Quá khứ, hiện, vị lai
Làm theo lời Đạo sư
Nắm được thời ở đời
Cho vô thượng Phạm hạnh
Ai đã bước con đường
Do Như Lai thuyết giảng
Những ai sống chế ngự
Do bậc pháp nhãn dạy
Như đã được thuyết giảng
Bậc Bà con mặt trời
Hãy sống thường chánh niệm
Hộ trì không tham dục
Chặt đứt mọi tùy miên
Không chạy theo ma giới
Các vị ấy ở đời
Đến được bờ bên kia
Và họ cũng đạt được
Các lậu hoặc đoạn tận
(X)(30) TÔN GIẢ ANURUNDHA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy
giờ, Tôn giả Anuruddha sống giữa dân chúng Celì, tại Pàcìnavamsadàya, Rồi
Tôn giả Anuruddha, trong khi sống độc cư … Thiền tịnh, tâm tư khởi lên
như sau : "Pháp này để cho người ít dục, pháp này không phải để
cho người nhiều dục ; Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không
phải để cho người không biết đủ ; Pháp này để cho người sống thanh
vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng ; Pháp này để
cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng nhác
; Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không phải để cho người
nhất niệm ; Pháp này để cho người Thiền định, pháp này không phải để
cho người không Thiền định ; Pháp này để cho người có trí tuệ, pháp
này không phải để cho người ác tuệ".
2. Rồi Thế Tôn với tâm của mình
rõ biết tâm của Tôn giả Anuruddha, ví như người lực sĩ duỗi bàn tay
đang co lại ; hay co lại bàn tay đang duỗi ra ; cũng vậy, Thế Tôn biến mất
ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển,
và hiện ra giữa dân chúng Celì, tại Pàcìnavamsadàya, trước mặt Tôn giả
Anuruddha. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Thế Tôn nói
với Tôn giả Anuruddha đang ngồi một bên :
3. - Lành thay, lành thay, này
Anuruddha ! Lành thay, này Anuruddha, Thầy đã suy nghĩ đến bảy niệm của bậc
Đại nhân : " Pháp này để cho người ít dục, pháp này không phải để
cho người nhiều dục ; Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không
phải để cho người không biết đủ ; Pháp này để cho người sống thanh
vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng ; Pháp này để
cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng nhác
; Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không phải để cho người
nhất niệm ; Pháp này để cho người Thiền định, pháp này không phải để
cho người không Thiền định ; Pháp này để cho người có trí tuệ, pháp
này không phải để cho người ác tuệ".
Do vậy, này Anuruddha, hãy suy nghĩ
đến niệm thứ tám này của bậc Đại nhân : "Pháp này để cho người
không ưa lý luận, không thích hý luận, Pháp này không phải để cho người
ưa lý luận, thích hý luận ".
4. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn,
Thầy sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ.
5. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn,
diệt tầm diệt tứ, Thầy sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
6. Khi nào, này Anuruddha, khi nào Thầy
sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy
muốn, Thầy sẽ ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và an
trú Thiền thứ ba.
7. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn,
Thầy sẽ xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
8. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, khi nào bốn Thiền
này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó
khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời
này Anuruddha, tấm y lượm từ đống rác lên của Thầy sẽ giống như tủ
áo đầy những vả có nhiều màu sắc của người gia chủ hay con người
gia chủ, để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc
trú, được bước vào Niết-bàn.
9. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn,
khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng
được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không
phí sức, thời này Anuruddha, các món ăn từng miếng Thầy khất thực được
sẽ giống như món cơm bằng gạo trắng, các hạt đen đã được lượm sạch,
với nhiều loại súp, với nhiều loại đồ ăn của người gia chủ, hay của
con người gia chủ, để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu,
được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.
10. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn,
khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng
được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không
phí sức, thời này Anuruddha, chỗ nằm dưới gốc cây thầy sẽ giống như
nhà có nóc nhọn, có trét hồ trong ngoài, cửa được cài then, cửa sổ
được đóng lại ngăn chặn gió của người gia chủ, hay của con người
gia chủ, để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc
trú, được bước vào Niết-bàn.
11. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, khi nào bốn Thiền
này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó
khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời
này Anuruddha, giường nằm và chỗ ngồi trải với đệm cỏ của Thầy sẽ
giống như ghế dài, nệm trải giường nằm bằng len, chăn len trắng, chăn
len thêu bông, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm thảm với đầu
che phía trên, ghế dài có đầu gối chân màu đỏ của các người gia chủ,
hay của con người gia chủ, để được sống biết đủ, ưa thích, không
có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.
12. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ
suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, khi nào bốn Thiền
này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó
khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời
này Anuruddha, dược phẩm nước tiểu hôi của Thầy sẽ giống như các loại
dược phẩm của các người gia chủ, hay của con người gia chủ, như thục
tô, sanh tô, dầu, mật, đường bánh, để được sống biết đủ, ưa thích,
không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.
13. Vậy này Anuruddha, nhân kỳ an cư
mùa mưa sắp đến, hãy trú giữa dân chúng Cetì ở Pàcìnavamsadàya.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Anuruddha vâng đáp Thế
Tôn. Rồi Thế Tôn sau khi khuyến giáo Tôn giả Anuruddha với lời khuyến
giáo này, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh
tay đang duỗi ra ; cũng vậy, Ngài biến mất giữa dân chúng Cetì ở
Pàcìnavamsadàya và hiện ra giữa dân chúng Bhagga, trên núi Sumsumàra trong rừng
Bhesakalà, vườn Lộc Uyển. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn,
sau khi ngồi xuống, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
14. - Này các Tỷ-kheo, Thầy sẽ
thuyết tám tư niệm của bậc Đại nhân co các Thầy. Hãy lắng nghe và
khéo tư niệm, Ta sẽ giảng :
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
- Này các Tỷ-kheo, thế nào là tám
tư niệm của bậc Đại nhân ?
15. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người ít dục, Pháp này không phải để cho người nhiều dục ; Pháp
này để cho người biết đủ, pháp này không phải để cho người không
biết đủ ; Pháp này để cho người sống thanh vắng, pháp này không phải
để cho người ưa hội chúng ; Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn,
pháp này không phải để cho người biếng nhác ; Pháp này để cho người
trú niệm, pháp này không phải để cho người nhất niệm ; Pháp này để
cho người Thiền định, pháp này không phải để cho người không Thiền
định ; Pháp này để cho người có trí tuệ, Pháp này không phải để cho
người ác tuệ ; Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa lý luận,
không thích luận hý, Pháp này không phải để cho người ưa lý luận,
thích luận hý.
16. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người ít dục, Pháp này không để cho người có dục lớn", như vậy
đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy ?
17. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
ít dục không muốn : "Mong người ta biết tôi là ít dục" ; biết
đủ, không muốn : "Mong người ta biết tôi là biết đủ" ; sống
viễn ly, không muốn : " Mong người ta biết tôi sống viễn ly" ; ,
tinh cần tinh tấn, không muốn : " Mong người ta biết tôi sống tinh cần
tinh tấn" ; trú niệm, không muốn : " Mong người ta biết tôi trú
niệm" ; có định, không muốn : " Mong người ta biết tôi có định"
; có tuệ, không muốn : " Mong người ta biết tôi có tuệ " ; không
thích hý luận, không muốn : " Mong người ta biết tôi không thích hý
luận". Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này
không để cho người có dục lớn", đã được nói đến như vậy. Do
duyên này được nói như vậy.
18. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người biết đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ
", như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy ?
19. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết đủ với bất cứ vật dụng gì như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người biết
đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ ", đã được nói
đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
20, Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người sống viễn ly, Pháp này không để cho người ưa hội chúng",
như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy ?
21. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống viễn ly, có nhiều người đến thăm như Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Niganthà,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần, các ngoại đạo sư, đệ tử của
các ngoại đạo sư. Ở đây, Tỷ-kheo với tâm thuận về viễn ly, hướng
về viễn ly, nhập vào viễn ly, trú vào viễn ly, thích thú xuất ly, nói lời
hoàn toàn liên hệ đến lánh xa. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người
viễn ly, Pháp này không để cho người không ưa hội chúng", đã được
nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
22. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người tinh cần tinh tấn, Pháp này không để cho người biếng nhác",
như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy ?
23. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống tinh cần tinh tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, thành tựu các
Pháp thiện, nỗ lực kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện
pháp. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, Pháp
này không để cho người biếng nhác", đã được nói đến như vậy.
Do duyên này được nói như vậy.
24. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người trú niệm, Pháp này không để cho người thất niệm", như vậy
đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy ?
25. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những
điều đã làm, nói đã lâu. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người trú
niệm, Pháp này không để cho người thất niệm", đã được nói đến
như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
26. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người thiền định, Pháp này không để cho người không thiền định",
như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy ?
27. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly dục, ly ác pháp … chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Này các Tỷ-kheo,
Pháp này để cho người thiền định, Pháp này không để cho người không
thiền định", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói
như vậy.
28. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người có trí tuệ, Pháp này không để cho người không trí tuệ",
như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy ?
29. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có trí tuệ, có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết
trạch), đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, Pháp
này để cho người có trí tuệ, Pháp này không để cho người không trí
tuệ", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy
30. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để
cho người không ưa hý luận, không thích hý luận, Pháp này không để cho
người ưa hý luận, thích hý luận", như vậy đã được nói đến. Do
duyên gì được nói như vậy ?
31. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
đối với đoạn diệt hý luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú,
hướng đến. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa hý luận,
không thích hý luận, Pháp này không để cho người ưa hý luận, thích hý
luận", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
32. Rồi Tôn giả Anuruddha, mùa mưa
an cư đến, đến trú ở giữa dân chúng Cetì, tại Pacìnavamsadàya. Rồi
Tôn giả Anuruddha sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần, không bao lâu, do mục đích gì, các Thiện nam tử chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là vô thượng cứu cánh
Phạm hạnh ngay trong hiện tại, vị ấy tự mình nói thắng trí, chứng ngộ,
chứng nhập và an trú. Vị ấy chứng rõ : "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những gì nên làm đã làm, không có trở lui lại trạng thái
này nữa" và Tôn giả Anuruddha trở thành một vị A-la-hán nữa ngay
trong thời gian ấy, nói lên những bài kệ này :
Thế gian vô thượng sư
Rõ biết tư tưởng ta
Với thân do ý tạo
Thần thông đến với ta
Tùy theo ta nghĩ gì
Ngài thuyết rõ tất cả
Phật không ưa hý luận
Ngài thuyết, không hý luận
Ngộ pháp, ta hoan hỷ
Trú trong giáo pháp ngài
Ba minh đã đạt được
Giáo pháp Phật làm xong.
*
* *
IV. PHẨM BỐ THÍ
(I)(31) BỐ THÍ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám bố
thí. Thế nào là tám ?
2. Vì có người đến, nên bố thí
; Vì sợ hãi, nên bố thí ; Vì nghĩ rằng : "Người ấy sẽ cho ta nên
bố thí ; Vì nghĩ rằng : "Bố thí là tốt" nên bố thí ; Vì nghĩ
rằng : "Ta nấu, những người này không nấu. Thật Ta không xứng đáng
là người nấu lại không cho người không nấu" nên bố thí ; Vì nghĩ
rằng : "Do ta cho bố thí này, nên tiếng tốt được truyền đi" nên
bố thí ; Vì trang nghiêm tâm, trang bị tâm nên bố thí.
Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí
này.
(II)(32) BỐ THÍ (2)
Tín, tàm và thiện thí
Những pháp thiện sĩ cầu
Đường này gọi Thiện đạo
Đường này đi Thiên giới
(III)(33) CĂN BẢN ĐỂ BỐ THÍ
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản
để bố thí. Thế nào là tám ?
2. Vì lòng dục nên bố thí ; vì
sân hận nên bố thí ; vì ngu si nên bố thí ; vì sợ hãi nên bố thí ; vì
nghĩ rằng : "Trước tổ tiên đã bố thí, trước đã làm. Ta không xứng
đáng là người để truyền thống này bị bỏ phế" nên bố thí ; vì
nghĩ rằng : "Sau khi cho bố thí này, khi thân hoại mạng chung, se được
sanh lên thiện phú, Thiên giới, cõi đời này "nên bố thí. Vì nghĩ rằng
: "Khi ta bố thí này, tâm được tịnh tín, do hân hoan, hỷ được
sanh" nên bố thí. Để trang nghiêm tâm, trang bị tâm nên bố thí.
Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản
để bố thí này.
(IV)(34) THỬA RUỘNG
1.- Này các Tỷ-kheo, hột giống
được gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là không quả
lớn, không vị ngọt lớn, không phải địa điểm tăng thịnh. Thế nào
là thành tựu tám chi phần ?
2. Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa
ruộng lồi lên lõm xuống, đầy đá và sạn, đất mặn, không có bề
sâu, không có chỗ nước chảy ra, không có chỗ nước chảy vào, không có
nước chảy, không có bờ đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hột giống được
gieo vào thửa ruộng thành tựu được tám chi phần được xem là không quả
lớn, không vị ngọt lớn, không phải địa điểm tăng thịnh. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi
phần, không có quả lớn, không lợi ích lớn, không có rung cảm lớn. Thế
nào là thành tựu tám chi phần ?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Sa-môn, các Bà-la-môn có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng,
tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Như vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa
những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, không có quả lớn, không
lợi ích lớn, không có rung cảm lớn.
4. Này các Tỷ-kheo, hột giống được
gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là không quả lớn,
không vị ngọt lớn, không phải địa điểm tăng thịnh. Thế nào là
thành tựu tám chi phần ?
5. Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa
ruộng không lồi lên lõm xuống, không có đầy đá và sạn, không có đất
mặn, có bề sâu, có chỗ nước chảy ra, có chỗ nước chảy vào, có nước
chảy, có bờ đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào
thửa ruộng thành tựu được tám chi phần được xem là có quả lớn, có
vị ngọt lớn, là địa điểm tăng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bố
thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, có quả lớn, lợi
ích lớn, có rung cảm lớn. Thế nào là thành tựu tám chi phần ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Sa-môn, các Bà-la-môn có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, có quả lớn,
lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có rung cảm lớn.
Khi ruộng được đầy đủ
Hột giống gieo đầy đủ
Khi mưa xuống đầy đủ
Lúa gặt được đầy đủ
Tai họa không có mặt
Tăng trưởng được đầy đủ
Rộng lớn được đầy đủ
Kết quả được đầy đủ
Cũng vậy, sự bố thí
Giữa những người đủ giới
Và vật liệu bố thí
Cũng được sắm đầy đủ
Đưa đến sự đầy đủ
Vì sở hành đầy đủ
Vậy ai muốn đầy đủ
Phải tự mình đầy đủ
Phục vụ người đủ tuệ
Như vậy thành công đủ
Đầy đủ trí và đức
Với tâm được đầy đủ
Làm nghiệp được đầy đủ
Lợi ích được đầy đủ
Như thật biết cuộc đời
Đạt được kiến đầy đủ
Đường đầy đủ đi đến
Tiến đến ý đầy đủ
Vất bỏ mọi cấu uế
Đạt Niết-bàn cụ túc
Giải thoát mọi khổ đau
Tức đầy đủ vẹn toàn.
(V) (35) THỌ SANH DO BỐ THÍ
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám thọ
sanh do bố thí. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ,
vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố
thí và mong hưởng quả. Thấy các Sát-đế-lỵ đại phú hay các Bà-la-môn
đại phú, hay các gia chủ đại phú, sung túc, đầy đủ, thọ hưởng năm
dục trưởng dưỡng, người ấy suy nghĩ như sau : "Mong rằng, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh cọng trú với Sát-đế-lỵ đại phú, hay với
Bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú ". Người ấy móng tâm
như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ
liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cọng trú với Sát-đế-lỵ đại phú, hay với Bà-la-môn đại phú, hay
với gia chủ đại phú. Ta nói rằng : "Người ấy là người giữ giới,
không phải là người ác giới". Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành
công, vì tâm hướng đến thanh tịnh.
3-4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc,
xe cộ, vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người
ấy bố thí và mong hưởng qua. Nghe rằng : "Bốn Thiên vương thiên sống
lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc", người ấy suy nghĩ như sau :
"Mong rằng khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên
ở Bốn Thiên vương … với chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba … với chư
Thiên ở cõi Trời Dạ-ma … với chư Thiên ở cõi Trời Đâu-xuất … với
chư Thiên ở cõi Trời Hóa lạc … với chư Thiên ở cõi Trời Tha hóa Tự
tại thiên … "Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm
như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở cõi Bốn
thiên vương … ở cõi Tha hóa Tự tại thiên, hay với Bà-la-môn đại phú,
hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng : "Người ấy là người giữ
giới, không phải là người ác giới". Này các Tỷ-kheo, người giữ
giới thành công, vì tâm hướng đến thanh tịnh.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống… Nghe rằng : " :
"Chư Thiên ở Phạm chúng thiên sống lâu, có dung sắc, được nhiều
an lạc", người ấy suy nghĩ như sau : "………". Ta nói rằng :
"Người ấy là người không giữ giới, không phải là người ác giới,
là người ly tham, không phải là người có tham". Này các Tỷ-kheo, người
giữ giới thành công, vì tâm hướng đến thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, người
giữ giới thành công, vì tâm hướng đến ly tham. Này các Tỷ-kheo, tám
pháp này là tám pháp thọ sanh do bố thí.
(VI) (36) PHƯỚC SỰ NGHIỆP
- - Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản làm phước. Thế
nào là ba ?
2. Căn bản làm phước do bố thí,
căn bản làm phước do giới đức, căn bản làm phước do tu tập.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô nhỏ, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô nhỏ, căn bản làm phước do tu tập
một quy mô nhỏ. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh làm
người không may mắn.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô vừa, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy vừa, không đạt được căn bản làm phước
do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh làm người
có may mắn.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn
bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí,
sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua Bốn
thiên vương trên mười điểm : tuổi thọ chư Thiên, dung sắc chư Thiên,
an lạc chư Thiên, danh tiếng chư Thiên, Tăng thượng lúc chư Thiên, thiên sắc,
thiên hương, thiên vị, thiên xúc.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn
bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí,
sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua
chư Thiên ở Tàvatimsa trên mười điểm : tuổi thọ chư Thiên, dung sắc chư
Thiên, an lạc chư Thiên, danh tiếng chư Thiên, Tăng thượng lúc chư Thiên,
thiên sắc, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn
bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Yàma thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên tử Suyàma sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí,
sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua
chư Thiên ở Yàma trên mười điểm : tuổi thọ chư Thiên, … thiên vị,
thiên xúc.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn
bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Tusità thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên tử Santusità, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố
thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt
qua chư Thiên ở Tusità trên mười điểm : tuổi thọ chư Thiên, … thiên vị,
thiên xúc.
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn
bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Hóa lạc thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
Thiên tử Sunimmita, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí,
sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua
chư Thiên ở Hóa lạc thiên trên mười điểm : tuổi thọ chư Thiên, …
thiên vị, thiên xúc.
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm
phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn
bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên. Tại đây, này các
Tỷ-kheo, Thiên tử Vasavattì, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp
do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức,
vượt qua chư Thiên ở Tha hóa Tự tại thiên trên mười điểm : tuổi thọ
chư Thiên, … thiên vị, thiên xúc.
Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản
phước nghiệp này.
(VII)(37) NGƯỜI CHÂN NHÂN (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám bố
thí này của bậc chân nhân. Thế nào là tám ?
2. Cho vật trong sạch ; cho vật thù
diệu ; cho đúng thời ; cho vật thích ứng ; cho với sự cẩn thận ; cho
luôn luôn ; tâm cho được tịnh tín ; sau khi cho được hoan hỷ.
Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí
này của bậc chân nhân :
Trong sạch và thù diệu
Đúng thời và thích ứng
Đồ uống và đồ ăn
Luôn luôn làm bố thí
Trong các ruộng tốt lành
Sống theo đời Phạm hạnh
Không có gì hối tiếc
Bố thí nhiều tài vật
Những bố thí như vậy
Được bậc trí tán thán
Bậc Trí thí như vậy
Với tâm tín, giải thoát
Không hại, tâm an lạc
Bậc trí sanh ở đời.
(VIII) (38) NGƯỜI CHÂN NHÂN (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, bậc chân
nhân sinh ra trong gia đình nào, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều
người ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho cha mẹ ; đem lại lợi
ích, hạnh phúc, an lạc cho vợ con ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho người phục vụ, người làm công ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho bạn bè thân hữu ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho các hương
linh đã mất ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vua chúa ; đem lại
lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên ; đem lại lợi ích, hạnh phúc,
an lạc cho Sa-môn, Bà-la-môn.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cơn
mưa lớn làm cho các loại mùa màng thành tựu đầy đủ, đem lại lợi
ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều người. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bậc
Chân nhân sinh ra trong gia đình nào, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho nhiều người ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho cha mẹ ; đem lại
lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vợ con ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an
lạc cho người phục vụ, người làm công ; đem lại lợi ích, hạnh phúc,
an lạc cho bạn bè thân hữu ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho
các hương linh đã mất ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vua chúa
; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên ; đem lại lợi ích, hạnh
phúc, an lạc cho Sa-môn, Bà-la-môn.
Vì lợi ích nhiều người
Bậc trí sống gia đình
Không mệt mỏi ngày đêm
Cúng dường thật đúng pháp
Mẹ cha và tổ tiên
Nhớ ngày trước đã làm
Đối xuất gia, không nhà
Kính lễ bậc Phạm hạnh
Tin vững trú, cúng dường
Biến pháp, khéo xử sự
Là người đem lợi ích
Cho vua, cho chư Thiên
Là người đem lợi ích
Cho bà con, bè bạn
Là người đem lợi ích
Cho tất cả mọi người
Khéo an trú diệu pháp
Nhiếp xan tham cấu uế
Hưởng cuộc đời hạnh phúc
(IX)(39) NGUỒN NƯỚC CÔNG ĐỨC
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn
nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc làm nhơn
sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái,
khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử quy y Phật. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ
nhất, là nguồn nước thiện … hạnh phúc, an lạc.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Thánh đệ tử quy y Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức
thứ hai, là nguồn nước thiện … hạnh phúc, an lạc.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Thánh đệ tử quy y Tăng. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức
thứ ba, là nguồn nước thiện … hạnh phúc, an lạc.
5. Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí
này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày,
được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại
không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những
Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử đoạn tận sát sanh. Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát
sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù
cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi
cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy
sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại.
Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết
là tối sơ, được biết là lâu ngày … không bị những Sa-môn, những
Bà-la-môn có trí khinh thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công
đức thứ tư, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả
ý, hạnh phúc, an lạc.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho
… đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục …
đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo … đoạn tận đắm say rượu men, rượu
nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù
cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi
cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy
sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại.
Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ năm, là đại bố thí, được biết
là tối sơ, được biết là lâu ngày … không bị những Sa-môn, những
Bà-la-môn có trí khinh thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công
đức thứ tư, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả
ý, hạnh phúc, an lạc.
Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn nước
công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc làm nhơn sanh Thiên,
quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ,
khả ý, hạnh phúc, an lạc.
(X)(40) RẤT LÀ NHẸ
1.- Này các Tỷ-kheo, sát sanh được
thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục,
đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức
nhẹ của sát sanh là được làm người với tuổi thọ ngắn.
2. Này các Tỷ-kheo, lấy của không
cho được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị
thục hết sức nhẹ của lấy của không cho là được làm người với sự
tổn hại tài sản.
3. Này các Tỷ-kheo, tà hạnh trong
các dục được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa
đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả
dị thục hết sức nhẹ của tà hạnh trong các dục là được làm người
với sự oán thù của kẻ địch.
4. Này các Tỷ-kheo, nói láo được
thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục,
đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức
nhẹ của nói láo là được làm người bị vu cáo không đúng sự thật.
5. Này các Tỷ-kheo, nói hai lưỡi
được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa
ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết
sức nhẹ của nói hai lưỡi là được làm người với bạn bè bị đổ vỡ.
6. Này các Tỷ-kheo, nói ác khẩu
được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa
ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết
sức nhẹ của nói ác khẩu là được làm người và được nghe những tiếng
không khả ý.
7. Này các Tỷ-kheo, nói lời phù
phiếm được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị
thục hết sức nhẹ của nói lời phù phiếm là được làm người và được
nghe những lời khó chấp nhận.
8. Này các Tỷ-kheo, uống men rượu,
rượu nấu, được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ.
Quả dị thục hết sức nhẹ của uống rượu là được làm người với
tâm điên loạn.
V. PHẨM NGÀY TRAI GIỚI
(I) (41) CÁC TRAI GIỚI
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì tại Jetanava, khu vườn ông Anàthapindika, ở đấy Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo", - "Bạch Thế Tôn"
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
2. - Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới
thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi
ích lớn, có rực rỡ lớn ; có biến mãn lớn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo,
là ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được
quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn ; có biến mãn lớn ?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử suy nghĩ như sau : "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn
tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có
lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu
tình. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương
xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Với chi phần
này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới ". Đây là
chi phần thứ nhất được thành tựu.
4. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ
mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Hôm
nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy
những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh,
không có trộm cướp. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ
thực hành trai giới ". Đây là chi phần thứ hai được thành tựu.
5. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận phi Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ
dâm dục hèn hạ. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận phi Phạm
hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Với chi phần
này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới ". Đây là
chi phần thứ ba được thành tựu.
6. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y
chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Hôm
nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói
những lời chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường
gạt đời. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành
trai giới ". Đây là chi phần thứ tư được thành tựu.
7. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận đắm say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say
rượu men, rượu nấu. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận đắm
say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Với
chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới ".
Đây là chi phần thứ năm được thành tựu.
8. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm,
từ bỏ ăn phí thời. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng dùng mỗi ngày
một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phí thời.
Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới
". Đây là chi phần thứ sáu được thành tựu.
9. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc diễn kịch, không trang sức bằng
vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Hôm nay, đêm này và
ngày nay, ta cũng từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc diễn kịch, không
trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Với chi
phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới ". Đây
là chi phần thứ bảy được thành tựu.
10. "Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không
dùng các giường cao, giường lớn. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng
đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng
các giường cao, giường lớn. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán,
ta sẽ thực hành trai giới ". Đây là chi phần thứ tám được thành tựu.
Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới
thành tựu tám chi phần được thực hành như vậy, thời có được quả lớn,
có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn.