- Kinh Ví Dụ Con Rắn
(Kinh số 22, Trung Bộ)
- Thích Minh Châu
Đây là một bài Kinh hay, một bài
Kinh đặc biệt, nói lên những nhận thức sâu sắc đối với những lời
dạy của đức Phật, đối với các dục (Kàma), đối với mục tiêu thuyết
pháp của đức Bổn Sư về những tai hại do những chấp thủ nói trên
đưa đến. Tiếp đến đức Phật trình bày 6 kiến xứ, chấp thủ 5 thủ
uẩn là của ta, là ta, là tự ngã của ta; chấp thủ tự ngã và thế giới
là thường còn, thường hằng sau khi chết. Chính sự chấp thủ 6 kiến xứ
này đem lại sự tái sanh đời này sang đời khác, kể cả những sầu bi
lo âu phiền não trong đời sống hiện tại. Tiếp tục, Kinh nầy đề cập
đến thuyết Vô ngã giúp đoạn trừ 6 kiến xứ, chứng đạt quả A-la-hán,
Niết-bàn. Cuối cùng, đức Phật đề cập đến vấn đề ngoại đạo xuyên
tạc rằng lời dạy Vô ngã của đức Phật là dạy hư vô chủ nghĩa; đức
Phật nói lên thái độ của Ngài đối với vấn đề khen chê. Cuối cùng
đức Phật khuyên các đệ tử hãy từ bỏ những gì không phải là của
mình. Từ bỏ như vậy sẽ đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho chính
mình. Hãy hành trì theo lời thuyết pháp của đức Phật. Vì chính nhờ
nghe theo lời thuyết pháp mà các đệ tử có khả năng chứng được Thánh
quả tùy pháp hành, tùy tín hành, được sanh Thiên.
I/ ANTTHA CHẤP THỦ CÁC DỤC KHÔNG
PHẢI LÀ CHƯỚNG NGẠI VÀ ĐỨC THẾ TÔN GIẢI THÍCH CÁC DỤC LÀ CHƯỚNG
NGẠI PHÁP VỚI 10 VÍ DỤ NÊU RÕ CÁC DỤC LÀ VUI ÍT, KHỔ NHIỀU, NÃO NHIỀU,
VÀ CÁC NGUY HIỂM NƠI ĐÂY LẠI NHIỀU HƠN.
Tỷ-kheo Anttha khởi lên ác tà kiến
chủ trương rằng thọ dụng các pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại
pháp thực sự không chướng ngại gì. Sau khi khuyên bảo không có hiệu quả,
các Tỷ-kheo trình lên Thế Tôn và Thế Tôn cho gọi Anttha đến quở trách
ác tà kiến của Anttha và chính thức xác nhận các dục là chướng ngại
pháp cho người tu hành. Ngài dùng 10 ví dụ xác nhận các dục là chướng
ngại pháp, vui ít khổ nhiều, các nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn. Thế
Tôn dùng 10 ví dụ để chứng minh các dục là vui ít khổ nhiều, não nhiều,
sự nguy hiểm nơi đây lại nhiều hơn. Các dục, đức Thế Tôn thuyết như
khúc xương, như miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than hừng,
như cơn mộng, như vật dụng cho mượn, như trái cây, như lò thịt, như gậy
nhọn. Thế Tôn thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều
não nhiều, và do vậy, sự nguy hiểm càng nhiều hơn. Tỷ-kheo Anttha không
những xuyên tạc Thế Tôn vì đã tự chấp thủ sai lạc còn tự phá hoại
mình và tạo nên nhiều tổn đức. Và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và
đau khổ lâu ngày cho kẻ ngu si ấy. Thật sự, sự kiện này không xảy ra.
Người ta có thể thọ dụng các dục ngoài các dục, ngoài các dục tưởng,
ngoài các dục tầm.
II/ TAI HẠI NẮM GIỮ SAI LẠC CÁC
PHÁP.
Tiếp đến, Thế Tôn đề cập đến
sự tai hại do nắm giữ sai lạc các pháp được Thế Tôn thuyết giảng.
Có hạng người ngu si học "Kinh phúng tụng, giải thích, kệ tụng, cảm
hứng ngữ, như thị ngữ, bổn sanh, vị tằng hữu pháp, phương quảng.
"Sau khi học pháp, họ không quán sát các pháp ấy với tri túc. Do vậy
họ không hiểu rõ ràng ý nghĩa pháp ấy. Họ học pháp chỉ vì muốn chỉ
trích người khác, chỉ vì muốn khoái khẩu biện luận. Họ không đạt
được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Và vì nắm giữ sai lạc
những pháp ấy nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Như một
người muốn bắt con rắn nước lại nắm bắt ở lưng hay ở đuôi. Con rắn
ấy có thể quay đầu cắn người ấy nơi tay hay nơi một phần thân khác,
và người ấy có thể bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy?
Vì bắt rắn một cách sai lạc. Ở đây cũng vậy, học pháp, nắm pháp sai
lạc cũng đưa đến khổ đau và bất hạnh.
Trái lại, có một số thiện nam tử
học pháp xong, quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp
ấy, vì được trí tuệ quán sát nên được rõ ràng. Họ học pháp không
phải vì muốn chỉ trích người khác, không phải vì khoái khẩu biện luận,
và chứng đạt được mục tiêu mà học pháp hướng đến. Những pháp ấy
vì khéo nắm giữ nên đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài. Vì sao vậy?
Vì không nắm giữ sai lạc các pháp. Cũng vậy, một người muốn bắt con
rắn nước, người ấy có thể đè con rắn nước với cây gậy có nạng.
Sau khi đè con rắn với cây gậy có nạng, người ấy có thể nắm giữ cổ
con rắn. Đầu con rắn có thể uốn thân của nó xung quanh tay hay cánh tay
hay một phần của thân, người ấy không thể bị rắn cắn chết hay đau
khổ gần như chết. Vì sao vậy? Vì khéo nắm giữ con rắn nước. Ở đây
cũng vậy, những thiện nam tử ấy, vì khéo nắm giữ pháp, vì khéo quán
sát ý nghĩa pháp ấy với trí tuệ. Do vậy Thế Tôn khuyên các Tỷ-kheo
hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Thế Tôn thuyết giảng và như vậy thọ trì. Và
nếu có kẻ không hiểu rõ ý nghĩa lời Thế Tôn thuyết giảng và như vậy
thọ trì. Và nếu có kẻ không hiểu rõ ý nghĩa lời Thế Tôn thuyết giảng,
thời các người ấy ở nơi đây nên đến hỏi Thế Tôn hay hỏi những bậc
Tỷ-kheo có trí.
III/ THẾ TÔN GIẢNG PHÁP CHO CÁC TỶ-KHEO
NHƯ CHIẾC BÈ ĐỂ VƯƠÏT QUA, KHÔNG PHẢI ĐỂ NẮM GIỮ LẤY. CHÁNH PHÁP
CÒN PHẢI BỎ ĐI, HUỐNG NỮA LÀ PHI PHÁP.
Tiếp theo đức Thế Tôn xác định
Thế Tôn thuyết pháp, như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm
giữ lấy. Ví như một người đi đến một vùng nước rộng, bờ bên nầy,
nguy hiểm hãi hùng, bờ bên kia thì an ổn, không có gì sợ hãi. Nhưng không
có thuyền để vượt qua, người ấy bèn thâu góp cành lá cỏ cây cột lại
thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này để vượt qua bờ bên kia một
cách an toàn, khi qua bờ bên kia rồi, lại suy nghĩ chiếc bè được xây dựng
lên một cách công phu, bỏ lại thì luyến tiếc, nên người ấy đội chiếc
bè trên vai và tiếp tục đi. Hành động ấy khiến mọi người đàm tiếu,
vì sử dụng không đúng với sở dụng của chiếc bè. Người ấy, khi qua
bờ bên kia rồi, có thể kéo chiếc bè trên bờ, hoặc nhận chìm xuống nước
rồi tiếp tục đi theo công việc của mình. Và đến đây thì Thế Tôn
nói lên một lời dạy bất hủ, mãi mãi được truyền tụng cho đến ngày
nay: "Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua,
không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các thầy cần hiểu ví
dụ cái bè, chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp".
VI/ CHẤP THỦ 6 KIẾN XỨ LÀ TỰ
NGÃ. THÁI ĐỘ CỦA KẺ VÔ VĂN PHÀM PHU VÀ BẬC THÁNH ĐỆ TỬ.
Kẻ vô văn phàm phu, không yết kiến
các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp
các bậc Thánh, không yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp
các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân. Xem sắc pháp, xem
các cảm thọ, xem các tưởng, xem các hành, xem cái gì được thấy, được
nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tầm cầu,
được ý suy tư: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự
ngã của tôi", và bất cứ kiến xứ nào, nói rằng "Đây là thế
giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, sẽ
trú như thế này cho đến mãi mãi, xem như vậy là cái này là của tôi,
cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi". Thái độ của vị Thánh
đệ tử nghe nhiều thời khác hẳn, không những các vị này yết kiến,
thuần thục, tu tập pháp các bậc Thánh, các bậc Chân nhân, các vị này
đối với 5 thủ uẩn là cái này không phải của tôi, không phải là tôi,
không phải tự ngã của tôi, và bất cứ kiến xứ nào nói rằng: "Đây
là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường hằng, thường
trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi, xem như
vậy là cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi" Vị này do quan sát như vậy, đối với sự
vật thấy không thật có, nên không có lo âu phiền não.
V/ LO ÂU PHIỀN NÃO ĐẾN VÀ KHÔNG
ĐẾN VỚI NHỮNG AI.
a) Có thể có cái không thật có
ở ngoài có thể gây lo âu phiền muộn.
Có người nghĩ như sau: "Cái
gì chắc chắn đã là của tôi nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái
gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy".
Người ấy sầu muộn than van khóc lóc đi đến bất tỉnh.
b) Có thể có cái gì không thật
có ở ngoài không có thể gây lo âu phiền muộn.
Có người không nghĩ như sau:
"Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của
tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được
cái ấy". Người ấy không sầu muộn than van khóc lóc đi đến bất tỉnh.
c) Có thể có cái gì không thật
có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn.
Ở đây có người không khởi lên
tà kiến như sau: "Đây là thế giới, đây là tự ngã. Sau khi chết
tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú. Tôi sẽ trú như vậy cho
đến mãi mãi. Người nầy nghe Như Lai hay đệ tử của Như Lai thuyết pháp
để bài trừ tất cả các kiến xứ, cố chấp, luận chấp, thiên kiến,
tùy miên, sự đình chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi danh y, sự diệt
trừ mọi khát ái, đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Vị ấy không
có nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ
bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại. Vị ấy không sầu muộn,
than van, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh.
VI/ THẾ TÔN ĐẶT MỘT SỐ CÂU HỎI:
a) Các người có thể nắm giữ một
vật sở hữu gì mà vật sở hữu được nắm giữ sẽ thường hằng, thường
còn, thường trú, không chuyển biến? - Thưa không!
b) Các người có thể thấy một vật
sở hữu gì được nắm giữ và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ
thường còn, thường hằng, thường trú mãi mãi? - Thưa không!
c) Thế Tôn xác nhận: "Thế
Tôn cũng không thấy vật sở hữu nắm giữ nào, mà vật sở hữu được
nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển,
có thể trú như thế này mãi mãi".
d) Các người có thể chấp thủ một
ngã luận thủ nào mà ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại
không khởi lên sầu bi khổ ưu não? - Thưa không.
đ) Các người có thấy một ngã luận
thủ nào mà ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi
lên sầu bi khổ ưu não? - Thưa không.
e) Thế Tôn cũng không thấy ngã luận
thủ nào, mà ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi
lên sầu bi khổ ưu não.
g) Các người có y chỉ kiến y nào
mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu bi khổ ưu
não không? - Thưa không.
h) Các người có thấy kiến y nào
mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu bi khổ ưu
não? - Thưa không!
i) Thế Tôn cũng không thấy kiến y
nào mà kiến y được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu bi khổ ưu
não.
k) Nếu có ngã thời có ngã sở thuộc,
nếu có ngã sở thuộc thời có ngã của tôi. Nếu ngã và ngã sở thuộc
không thể được chấp nhận là thường còn, thời kiến xứ này: "Đây
là thế giới đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng",
kiến xứ ấy có hoàn toàn ngu si không? - Kiến xứ ấy thực sự là triệt
để ngu si.
VII/ QUAN ĐIỂM VÔ NGÃ CỦA ĐỨC PHẬT:
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời thật không hợp lý khi chánh
quán 5 thủ uẩn: "Cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của
tôi".
Bất cứ sắc pháp nào, thọ pháp
nào, tưởng pháp nào, hành pháp nào, thức pháp nào, quá khứ tương lai hiện
tại, nội hay ngoại thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các
pháp ấy là "cái này không phải của tôi, không phải là tôi, không phải
tự ngã của tôi"; cần phải như thật quán với trí tuệ.
VIII/ NHỜ QUÁN VÔ NGÃ ĐƯA ĐẾN GIẢI
THOÁT.
Nhờ quán như vậy, thấy như vậy,
vị Thanh văn nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm
chán đối với tưởng, nhàm chán đối với hành, nhàm chán đối với thức.
Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải
thoát có trí khởi lên biết được "ta đã giải thoát". Vị ấy
biết "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm,
không còn trở lại đời này nữa".
IX/ NHỮNG ĐẶC TÁNH CỦA MỘT VỊ
ĐÃ GIẢI THOÁT.
1) Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã
vất bỏ các chướng ngại nghĩa là đã đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc
rễ, làm cho như cây tala bị chặt đầu, không thể tái sanh trong tương
lai.
2) Tỷ-kheo ấy được gọi là đã
lấp đầy các thông hào tức là đã đoạn trừ tái sanh và sự luân
chuyển sanh tử.
3) Tỷ-kheo ấy đã nhổ lên cột
trụ, tức là đã đoạn trừ khát ái, đã cắt tận gốc rễ.
4) Tỷ-kheo ấy đã mở tung các
ổ khóa, đã đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử...
5) Là bậc Thánh đã hạ cây cờ
xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy, tức là đã
đoạn trừ ngã mạn.
X/ THẾ TÔN BỊ XUYÊN TẠC LÀ CHỦ
TRƯƠNG CHỦ NGHĨA HƯ VÔ.
Vì Thế Tôn thuyết một vị Tỷ-kheo
được giải thoát như vậy sẽ không một ai tìm được dấu vết. Ngài
nói thêm: "Ta nói ngay ở hiện tại, một Như Lai không thể tìm thấy dấu
vết". Vì lúc Ngài thuyết giảng như vậy, một số ngoại đạo xuyên
tạc Thế Tôn là chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy
diệt và sự tiêu diệt các hữu tình. Thế Tôn phủ nhận lời xuyên tạc
như vậy. Xưa cũng như nay, Thế Tôn nói lên sự khổ và sự diệt khổ. Nếu
có ai phỉ báng Như Lai, nhiếc mắng Như Lai, Thế Tôn không có sân hận. Nếu
có ai tôn trọng cúng dường Như Lai, Thế Tôn không có hoan hỷ, không có
thích thú. Thế Tôn chỉ suy nghĩ: "Đây là điều xưa kia đã từng biết
rõ. Ở đây là những trách nhiệm ta phải làm". Do vậy Thế Tôn
khuyên các Tỷ-kheo chớ có tức tối sân hận nếu bị người chỉ trích;
chớ có hoan hỷ thích thú nếu được người tán thán. Do vậy, nếu có người
cung kính tôn trọng lễ bái cúng dường, các Tỷ-kheo hãy suy nghĩ: "Đây
là điều xưa kia đã từng biết rõ. Ở đây là những trách nhiệm ta phải
làm".
XI/ LỜI THẾ TÔN KHUYÊN DẠY.
Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải
các người, các người hãy từ bỏ. Các người từ bỏ sẽ đem lại hạnh
phúc an lạc lâu dài. Sắc không phải của các người, hãy từ bỏ sắc.
Thọ không phải của các người, hãy từ bỏ thọ. Tưởng không phải của
các người, hãy từ bỏ tưởng. Các hành không phải của các người, hãy
từ bỏ hành... Thức không phải của các người, hãy từ bỏ thức. Các
người từ bỏ sắc, thọ, tưởng, hành, thức thời sẽ được hạnh phúc
an lạc lâu dài cho các người.
Như trong rừng Jetavana này, nếu người
thâu lượm cỏ, cây nhành lá, đốt lên hay làm theo ý họ muốn. Các Tỷ-kheo
không nghĩ rằng người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta và làm với
chúng ta tùy theo ý muốn. Vì sao vậy? Vì cỏ cây hoa lá không phải tự
ngã, không phải sở thuộc của tự ngã. Cũng vậy cái gì không phải của
các người, hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng sẽ đem lại hạnh phúc cho
các người. Và cái gì không phải của các người, chính là sắc, thọ, tưởng,
hành, thức.
XII/ NHỮNG LƠÏI ÍCH THIẾT THỰC CỦA
PHÁP ĐỨC PHẬT THUYẾT GIẢNG.
Vì pháp được Thế Tôn khéo thuyết
giảng, khéo khai thông khéo khai thị, nên giúp các vị hành trì có thể chứng
được bốn Thánh quả, là quả A-la-hán, quả Bất lai, Quả Nhất lai, quả
Dự lưu.
1) Các vị A-la-hán là những vị đã
đoạn tận các lậu hoặc tu hành thành mãn, việc nên làm đã làm, gánh nặng
đã đặt xuống, lý tưởng đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ,
được giải thoát nhờ chánh trí, vòng luân chuyển của những vị này
không thể chỉ bày.
2) Các vị Bất lai là những vị đã
đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập diệt tại đây,
không phải trở lui tại đời này nữa.
3) Các vị Nhất lai là những vị
đã đoạn trừ 3 kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, chỉ đến
đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau.
4) Các vị Dự lưu là những vị đã
đoạn trừ 3 kiết sử, không còn bị đọa lạc trong đường ác thú, quyết
định hướng đến chánh quả.
5) Nhưng Tỷ-kheo nào là những vị
tùy pháp hành, tùy tín hành; tất cả những vị ấy đều hướng đến Chánh
giác.
6) Vì pháp được Thế Tôn khéo giảng,
nên những vị nào chỉ đủ niềm tin nơi Thế Tôn, chỉ đủ lòng thương
mến đối với Thế Tôn, tất cả những vị ấy được hướng về chư
Thiên.
Chân thành cám ơn cư sĩ Bình Anson đã gửi tặng phiên bản
điện tử
http://www.buddhismtoday.com/viet/kinh/pali/kinhconran.htm