...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
- THẬP THIỆN
Cứu cánh rốt ráo của Đạo Phật
là "Vô thủ trước Niết Bàn". Cảnh giới ấy một khi thành tựu,
bậc giác ngộ sẽ đạt được trạng thái "Vô vi nhi vô bất vi"
(Nghĩa là không làm, hay vô sự, nhưng không việc chi là không hoàn tất);
"Tùy duyên bất biến" (nương theo mọi duyên nhưng tâm giải thoát
không hề biến chuyển). Tóm lại nơi "Vô thủ trước Niết Bàn" mọi
công đức đều có thể thành tựu. Tuy nhiên, trong thời gian hành giả tu tập,
còn bị kềm tỏa trong vòng "Thủ trước" của "tham, sân,
si" thì làm sao thành tựu vô lượng công hạnh khó nghĩ bàn để đến
cảnh giới "Vô Ngã". Phật dạy: "Long Vương! Ví như tất
cả thành, ấp, xóm, làng đều y địa đại mà được an trụ, tất cả
trăm hoa, cây cỏ bụi rừng cũng nương tựa địa đại ấy mà được sanh
trưởng; Thập Thiện Nghiệp đạo cũng lại như thế. Tất cả Nhơn Thiên
cũng y vào đó mà được an lập, tất cả Thanh Văn, Độc Giác Bồ Đề, các
hạnh Bồ Tát, tất cả Phật Pháp đều chung vào đại địa thập thiện này
mà được thành tựu." (Kinh Thập Thiện_HT Thích Hòan Quan dịch).
Như vậy, xem ra Thập Thiện là pháp môn căn bản, là thềm thang cho mọi
pháp môn. Hành giả dù có chí mong cầu phước báu hữu lậu ở cõi nhân
thiên, hay hướng về vô lậu giải thoát Niết Bàn, cho đến Vô Thượng Giác,
đều phải khởi điểm từ Thập Thiện.
Thập Thiện hay còn gọi là Thập
Thiện Nghiệp, Thập Thiện Giới, Thập Thiện Pháp. Tên gọi khác nhau là
do tùy cách diễn nghĩa theo các phương diện ứng dụng. Chẳng hạn như khi
chỉ nói riêng pháp số thì dùng danh từ Thập Thiện để chỉ cho mười
điều thiện bao gồm:
- Không sát sanh
- Không trộm cắp
- Không tà dâm
- Không vọng ngữ
- Không ỷ ngữ
- Không lưỡng thiệt
- Không ác khẩu
- Không tham lam
- Không sân giận
- Không si mê
Khi hành giả thọ trì mười điều
này để tu tập thì có thể dùng danh từ "Thập Thiện Giới" vì
khi đó, 10 điều trên đây được xem như "giới". Xét theo danh tự
pháp môn tu thì gọi là "Thập Thiện Pháp". Căn cứ trên mười pháp
thiện ấy để thành tựu phước báu nhân thiên và con đường Thánh Đạo
thì gọi là "Thập Thiện Nghiệp". Để được đầy đủ, chúng ta
sẽ xét trên bình diện rộng của Danh tự mà biện giải: Nghĩa là bắt đầu
từ phần thích nghĩa từng chi phần Thập Thiện; kế đến là Thập thiện
với hình thức giới; phần ba là pháp môn tu Thập Thiện qua sự phân chia
của ba nghiệp (thân, khẩu, ý); cuối cùng là thứ bậc tu tập của Thập
Thiện (từ sơ khởi cầu phước báu nhân thiên, đến 37 pháp trợ đạo cầu
quả Thanh Văn, Lục Ba la mật để thực hành Bồ Tát Đạo cầu Vô thượng
giác). Tuy nhiên, vì tính chất tương đồng nên phần Thập Thiện Giới sẽ
được giải thích cùng phần thích nghĩa chi pháp (gộp chung phần 1 và 2).
I. "Thập Thiện" và
"Thập Thiện Giới":
Như trên đã nêu qua, Thập Thiện
bao gồm mười điều: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm (có văn
bản dùng từ "không tà hạnh"), không nói dối, không ỷ ngữ,
không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không tham, không sân, không si. Nhưng xét
chi pháp theo Phật Giáo Nam Truyền thì có khác đôi chút như về danh từ
như: Bốn chi pháp thuộc về lời là không được nói dối, không được nói
đâm thọc, không được nói độc ác, không được nói viễn vong; các chi
thứ 8,9,10 là không được tham muốn gắt, không được thù oán, không tà
kiến.
- Không sát sanh:
"Sát sanh" là đoạn
ngang sanh mạng, dứt ngang mạng sống của kẻ khác. Người không sát sanh
thì không được tự cầm khí giới giết, hoặc miệng mình sai bảo ai đó
đoạn mạng kẻ khác, cũng không được thấy sự giết hại mà ý mình
hoan hỷ (tỏ vẻ hài lòng, đồng ý, vui theo việc đó). "Kẻ khác"
được đề cập ở đây bao gồm chúng sanh mọi cảnh, như trong văn giới
đề cập bao gồm "trên từ Thánh nhân, phụ mẫu; dưới cho đến loài
bò bay máy cựa vi tế côn trùng", có thể hiểu là không được đoạn
mạng bất cứ một chúng sanh, một cá thể có tình thức nào. Chẳng những
không được tự tay, trực tiếp đoạn mạng kẻ khác, mà ngay cả việc
dùng phương tiện như đá, bẫy, thuốc độc… hoặc gián tiếp sai sử người
làm, hoặc mưu tính đưa kẻ khác vào chỗ chết như xúi chết, bày kế mưu
khiến kẻ kia lâm vào thế phải chết, hay bất cứ hình thức gián tiếp
nào cũng không được. Thậm chí cho đến nảy sanh ý muốn kẻ kia phải chết,
hoặc nghe kẻ kia chết mà khoái ý đều phạm vào ác pháp, tức vi phạm
điều thiện thứ nhất. Về mặt giới thì căn cứ trên bốn điều
- Cố tâm giết
- Đối tượng giết
- Phương tiện giết
- Việc hoàn tất
"Cố tâm" tức là vì sân
giận, vì tham quyền lợi, danh vọng, vì oan trái thù hận… nói chung do một
động cơ nào đó khiến tâm khởi lên ý nghĩ muốn chấm dứt sự sống của
kẻ khác. Như thích ăn một món thịt gà_ ý nghĩ này khởi lên từ tâm
tham vị_ dẫn tới tâm muốn giết con gà, cũng từ tâm này thôi thúc
nên phải bằng cách nào đó giết con gà kia. Cũng theo thí dụ trên, con gà
là "đối tượng" bị giết. Nếu người kia dùng tay giết thì
"phương tiện giết" là "nội sắc" tức là dùng tay, chân,
thân thể, những gì thuộc nội thân. Dùng đá, cậy, dao… khi ấy phương
tiện là "ngoại sắc". Ở đây "cách thức" cũng kể vào
phương tiện như "trực tiếp" (tự tay làm) hay "gián tiếp"
(biểu người khác làm). Nếu như con gà mình muốn giết đã bị giết chết
rồi, như vậy là điều kiện kết tội đầy đủ, xem như trọn vẹn phạm
giới "Không sát sanh". Tuy nhiên, nếu không hội tụ đủ bốn điều
trên thì tội kết nhẹ hơn. Chẳng hạn như muốn giết con gà này nhưng lại
giết nhầm con khác tức điều thứ ba có phần khuyết, song vẫn có tội,
nhưng không kết trọn vẹn. Hoặc phương tiện giết không thành công, con
gà bị giết chưa chết thì chưa kết tội trọn vẹn. Nói "trọn vẹn"
hay "hay không trọn vẹn" là thay thế chữ "trọng" và chữ
"khinh". Điều này thấy rõ khi đối tượng được thay thế là người.
Như vậy, mức độ "trọng" hay "khinh" là còn tùy thuộc
vào cấp độ phạm của từng phần đặc biệt là "đối tượng sát".
Chẳng hạn đối tượng là A-la-hán hay cha mẹ thì cực trọng (rơi vào thất
nghịch hay ngũ nghịch), còn ruồi, muỗi, sâu, bọ dĩ nhiên là khinh tội. Cố
tâm thì tội nặng hơn khi lòng có sự rụt rè hối hận.
- Không trộm cắp:
"Trộm cắp" tức
khiến kẻ khác lìa mất vật sở hữu của họ. "Kẻ khác" cũng
được kể rộng như trên. "Lìa mất" nêu ở đây tức là đem đi
nơi khác, không hoàn trả (trừ trường hợp vì cấp bách, không có chủ
nhân khởi ý mượn tạm, hoặc vì thân tình có thể tạm dùng và việc ấy
không gây ra sầu, bi, khổ, ưu, não cho chủ sở hữu). Ở đây, đối tượng
là vật có chủ, "vật sở hữu" theo văn giới "từ vàng bạc
châu báu cho đến cọng cỏ lá rau, phàm có chủ sở hữu đều không được
lấy. Chẳng hạn như con chó có một khúc xương, khúc xương là vật mà
chó đang sở hữu, ta đoạt lấy của nó, đây cũng phạm tộ . Chữ "lìa
mất" tức là đã lấy đem đi, ở đây phương tiện lấy kết rộng
như giới không sát sanh, nghĩa là trực tiếp lấy hay gián tiếp, khiến người
lấy, lừa lấy v.v…Đại khái là khởi lên ác tâm muốn chiếm đoạt tài
vật của người khác (chúng sanh khác), tìm phương tiện để lấy, việc lấy
thực hiện xong, điều kiện kết tội như giới thứ nhất.
- Không tà dâm:
Người tại gia, giới này
dùng từ "không tà dâm", nhưng đối với bậc xuất gia thì
"không dâm dục". Chữ tà chỉ cho việc dâm của người thập thiện
không chính đáng, vì tại gia, người tu thập thiện có thể có vợ con cho
nên chưa trọn dứt đường dâm dục. Nhưng nếu ngoài người hôn phối của
mình ra, người tu thập thiện cùng người khác làm việc dâm dục, đây
là phạm vào tà dâm. Ngoài ra, nếu đối với người hôn phối của mình,
việc dâm dục thực hiện: phi đạo (không phải đường), phi xứ (không phải
nơi phòng the của riêng vợ chồng), phi thời (không phải thời gian của vợ
chồng sinh hoạt), rơi vào ba trường hợp này đều phạm.
- Không nói dối:
Nói dối tức là chuyện
thấy nói không thấy, không thấy nói thấy, nghe nói không nghe, không nghe
nói nghe, biết nói không biết, không biết nói biết, xấu nói tốt, tốt
nói xấu, có nói không, phải nói quấy… Dối trá không thật. Người tu
thập thiện không được phạm vào. Đặc biệt sẽ kết trọng ở tội
"đại vọng ngữ". Đại vọng ngữ là tu hành chưa chứng tự xưng
là mình đã chứng các pháp thượng nhân, pháp các bậc Thánh. Người phạm
đại vọng ngữ sẽ sa về tà đạo, đọa lạc tam đồ, rất nguy hiểm.
- Không lưỡng thiệt:
Lưỡng thiệt là
nói lưỡi hai chiều, tức là nói lời chia rẽ, đến người kia nói xấu
người này, đến người này nói xấu người kia, xúi dục bà con bất
hòa, thân tình thù oán. Người Việt ta có câu "đòn xóc hai đầu"
hay là "đâm bị thóc, thọc bị gạo". Người tu thập thiện phải
tránh nói lời đôi chiều dẫn đến kết quả oan trái giữa người và người,
không chỉ riêng lời nói mà ngay cả hành động khiến chia rẽ cũng phạm
tội này.
- Không ác khẩu:
Ác khẩu là lời nói
thô tục, mắng nhiếc, chưởi rủa, nguyền rủa, trù rủa v.v…Thường ác
khẩu hay bắt đầu từ sự sân giận, bực tức. Kinh sách có câu "một
cơn sân giận đốt cả rừng công đức". Người tu thập thiện không
được nói những lời gây xúc não, thiêu đốt tâm thức người khác mà
ngược lại phải nói lời "ái dưỡng tâm thức".
- Không ỷ ngữ:
Ỷ ngữ là nói lời vô
nghĩa lý, lời nói ủy mị khiến người điên đảo tâm hồn, chẳng còn
phân biệt thị phi, nhiều khi đưa đến tán gia bại sản hoặc gây ra tội
lỗi. Ví dụ như thầy của Ương Quật Ma La dụ bảo đệ tử mình rằng:
Nếu giết đủ 1000 người sẽ có sức mạnh vô song, thành tựu thượng pháp
của ông dạy, kết quả là Ương Quật Ma La đã đón đường giết 999 người,
may nhờ Phật độ giải thoát, nếu không ngay cả người mẹ mình, Ương
Quật cũng không chừa. Ỷ ngữ thường bắt đầu bằng lòng ghanh tị, tật
đố, ý muốn hại người và sắp bài âm mưu bịp người khiến họ tự
sa vào đường dữ. Lắm khi ỷ ngữ bắt đầu từ sự hoang tưởng, ngu tối,
người nói cũng không rõ mình nói việc như thế hậu quả sẽ đi về đâu.
Người tu thập thiện phải nói hợp với Phật Pháp, không vì lợi mình
hay tật đố mà bịa chuyện hại tha nhân.
- Không tham:
Tham đây nói đủ là tham dục.
Chữ dục chỉ cho các món ngũ dục trong nhân gian gồm: tài, sắc, danh, thực,
thùy (tài lợi, sắc ái, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ). Khi hành giả đối
diện với năm món dục trên, tâm cuốn hút theo, lòng muốn hưởng thụ nên
tìm cách thủ lấy, vì muốn đạt được những gì mình yêu thích, đôi
lúc không từ thủ đoạn, dẫn đến tội lỗi. Do đó, đối với ngũ dục
phải giữ tâm mình không được đắm trước vào.
- Không sân:
Đối với cảnh vừa ý thì
sanh tâm tham như trên đã nêu, ngược lại đối với những gì mình không
ưa, trái ý liền sanh tâm chán ghét, sân giận. Kinh nói: "Nhất niệm
sân tâm khởi, bát vạn chướng môn khai". Niệm sân cội gốc sâu xa nơi
cố chấp ngã và ngã sở. Vì yêu quí tự ngã, tất cả vun vén cho tự
ngã, coi tự ngã là tối thượng, là trung tâm điểm của vũ trụ nên một
sự kiện, một sự vật nào trái với sự yêu thích của tự ngã khiến bạn
nổi lên cơn sân giận. Pháp Phật thành tựu nơi vô ngã, do đó ngã chấp
càng kiên cố, sân niệm càng cao; sân niệm càng cao càng khó xả ngã.
Ngoài ra, vì sân giận sẽ tạo ra nhiều ác nghiệp khác khiến đọa lạc vào
ba đường khổ. Người tu thập thiện phải kiểm soát tâm mình ra khỏi
các niệm sân.
- Không si:
Chữ "Si", theo như Phật
giáo Nam truyền chỉ cho "Tà kiến". Nếu dùng chữ ngu si thì có thể
hiểu lầm là sự ngu dốt, không biết gì, do đó không đủ nghĩa bằng khi
dùng chữ "Tà kiến". Nếu như một người hiểu biết rộng rãi,
quảng bác kiến thức nhưng lại không tin nhân quả thì chẳng qua là hàng
"thế trí biện thông", như vậy, dù không ngu si nhưng cũng không hiểu
được thế nào là Phật pháp, rốt cuộc rơi vào thường kiến hoặc đoạn
kiến, sa vào tam đồ ác đạo. Người tu thập thiện, phải hướng đến
trí huệ giải thoát, thân cận bậc thượng nhân, bậc Thánh, hoặc Thánh
đệ tử để hiểu được chân thiện pháp.
II.Pháp môn tu Thập thiện:
Mười chi pháp nêu trên được chia
ra ba phần tương ứng với ba nghiệp thân, khẩu, ý. Không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm là ba điều thiện thuộc thân nghiệp. Không nói
dối, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ thuộc về khẩu
nghiệp. Không tham, không sân, không si thuộc về ý nghiệp. Luận về nghiệp
báo, vô lượng tội lỗi đều nương nơi thân khẩu ý mà tạo tác. Do đó,
tu thập thiện là pháp môn diệt tội lỗi nơi thân, khẩu, ý. Khi thành tựu
pháp môn rồi lúc đó gọi là "Tam nghiệp thanh tịnh". Xét như trên
đã nêu về giới, Thập thiện giới cũng coi như là pháp môn tu, Nhưng nếu
giới đã nêu lên sự tu tập, không cần luận bàn thêm về pháp môn tu!
Bây giờ, nêu Thập thiện pháp như là pháp môn tu tập, như vậy có sự
khác biệt nào ở đây? Khác ở nơi phần trên là phân biệt về giới,
còn phần này sẽ phân lập ra thân, khẩu, ý để trình bày. Trong đó chia
chẻ trình bày nhân tu và quả thành tựu như là một pháp môn hẳn hòi.
- Thân nghiệp:
Không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm.
— Không sát sanh: Như trên đã
nêu về giới, phàm hễ chúng hữu tình có sanh mạng không được đoạn dứt.
Quả báo của tội sát sanh là: Hiện đời người ta chán ghét; họ hàng,
muôn thú ghê sợ (đây là hoa báo). Quả báo rơi vào ba ác đạo. Dư báo
các đời sau sanh lên thường bị giết hại, mạng yểu. Ngược lại, người
không sát sanh sẽ được cuộc sống an ổn, không phải lo sợ về hoạnh tử,
oán hại, tuổi thọ các đời sau lâu dài. Sơ cơ tu tập bất sát có thể
còn gặp nhiều khó khăn như khó khăn về nghề nghiệp: Người làm ruộng
phải giết sâu bọ, người đang làm nghề chày lưới; khó khăn về quốc
nạn: Vì ngoại xâm, binh biến, người ra chiến trường phải giết giặc…Do
đó, người lập nguyện tu tập phải biết khéo tìm môi trường thuận lợi,
khéo hộ trì các căn để không thấy, không nghe việc giết chóc, sân giận
dẫn đến giết, tránh việc thấy giết mà vui theo. Dần dần phước đức,
công đức do trì giới bất sát thành tựu, khi đó sẽ đạt đến trạng
thái "nhậm vận tự nhiên bất sát", như bậc thánh quả Tu Đà
Hoàn cuốc đất côn trùng sẽ tự cách bốn tấc. Khi đó quanh ta khí sát cũng
tiêu tán dần khiến cho muôn thú không sợ, người khác không sợ bị ta
làm hại, trường hợp này cũng giống như chuyện các vị Tổ sư trong Phật
giáo vào núi rừng tu tập, voi, hổ, báo, chim chóc đến ở gần bên nghe
thuyết pháp. Muôn thú không sợ người, cũng không làm hại người; ngược
lại, người không sợ muôn thú và cũng không có ý sát hại.
— Không trộm cướp: Tiền bạc,
của cải đôi lúc người ta xem trọng như sinh mạng của họ. Nhân gian có
câu: "Đồng tiền là núm ruột", của cải vật chất cũng vậy, nên
khi bị tước đoạt mất, người ta đau khổ tưởng chừng như mạng sống
bị đoạn dứt. Lắm khi anh em trong nhà chỉ vì tranh giành của cải mà xô
xát, hại nhau. Tài vật đối với lòng tham của con người ảnh hưởng rất
lớn! Quả báo của hành động cướp đoạt là: Đời này bị pháp luật
ràng buộc, gia hình, họ hàng khinh khi xa lánh vì sợ bị mất của; tội
báo đời sau bị đọa vào địa ngục, ác thú phải thường chịu đói lạnh.
Nhiều kiếp lâu sau mới được sanh làm người, dư báo luôn bị đói
khát, nghèo cùng khốn khổ.
Người tu thập thiện hiểu được
sự nhiệt não do lòng tham đem lại, thấu hiểu nỗi đau khổ của sự mất
mát, và quả báo nguy hiểm của sự cướp đọat, do đó phát nguyện giữ
gìn giới hạnh không tước đoạt tài sản người khác, chúng sanh khác. Sơ
phát tâm tu tập giới này không khó như giới bất sát, tuy nhiên hành giả
phải có nhẫn lực cao, ý chí lớn. Vả như nhiều đời nhiều kiếp hành
giả chưa từng bố thí, nay rơi vào trạng huống quá cùng khổ, kẻ nghèo
khổ lại dễ làm càn: "Bần cùng sanh đạo tặc". Nhưng hành giả
thủ tâm bền chí tu tập, cam chịu đói nghèo, không vì đói khổ mà xâm
đoạt của phi nghĩa để sinh tồn. Khi giới thành tựu, phước báo là tài
sản không bị cướp bóc, xâm đoạt. Tuy nhiên, giới này phải chỉ tròn vẹn
khi tu tập chung với giới về ý là "không tham", tiến lên cấp bậc
cao hơn: chẳng những không tham, không cướp đoạt mà còn bố thí, như vậy
mới trọn vẹn, trở thành một người có phước đức lớn, không bao giờ
đói nghèo. Cao hơn là thành tựu được thất thánh tài, tùy tâm mãn nguyện.
— Không tà dâm: Dâm dục là
nhân sanh tử luân hồi. Vì luyến ái, người ta phải nhiều đời nhiều kiếp
ra vào thai mẹ, chịu khổ trong sáu đường. Người tại gia chưa dứt hẳn
đường dâm dục, có thể do còn luyến ái, hoặc phong tục tập quán dân tộc
hay gia đình, gia tộc ràng buộc phải sống trong đường chồng vợ, do đó
tâm phải giữ cho đoan chánh, lòng nghĩ việc kia như là bổn phận trách
nhiệm, không coi đó là lạc thú để đắm trước vào. Với người hôn phối
của mình, việc thọ lạc còn coi như là khổ hình, huống chi lại đi tìm
thú vui ở người khác. Luận về tội ngoại tình hay mua bán xác thịt và
những tội lỗi tương tự, nhân gian người ta xem như là điều đáng kinh
tởm. Lỗi này dẫn đến việc tan nhà nát cửa, chồng vợ nghi kỵ, lìa xa
nhau, có khi vì ghen tuông mà hại mình hại người… Do đó người tu thập
thiện phải phát nguyện thanh tâm chánh trực. Quả báo đời này là pháp
luật gia hình, hổ thẹn, nhục nhã. Đời sau thác sanh nơi ngục ô uế,
sanh vào loài bồ câu uyên ương. Dư báo làm người sẽ bị phản bội,
người yêu thương xa lìa, nghi hiềm v.v…Trọng tâm của việc tu thiện giới
này là xa lìa tâm đắm ái. Gẫm chúng sanh nhiều đời kiếp oan tình theo
nhau, khi thì làm cha mẹ, khi thì vợ chồng, lúc anh chị em, thân bằng quyến
thuộc, cho nên lúc câu sanh một nơi, người thân tiền kiếp dễ sanh tơ tình,
từ đó đưa đến việc ràng buộc tâm tư, tìm đến với nhau, kẻ nối lại
thân tình, người thì sanh oan trái… rốt cuộc tạo ra nhiều ác nghiệp. Sơ
phát tâm vì nghiệp duyên ái tình còn nặng, hành giả không khỏi khổ lụy
đảo điên, hoặc bị quấy phiền, nhưng nếu tâm tư trong sáng, tình không
nơi chiêu cảm, dần dà qua nhiều kiếp đời phôi pha sẽ được tự tại,
không còn bị duyên tình quấy nhiễu. Phước báo của người trì giới
này thân tâm sáng sạch, thanh tịnh, người trời, chúng sanh thấy đều yêu
thích.
_Kết lại: Ba giới này xếp về sự
tu hành thân nghiệp, giữ thân nghiệp thanh tịnh. Trọng điểm ở đây là
thân không làm ác. "Ác pháp" chỉ cho sự gia hại tha nhân (chúng hữu
tình khác). Gia hại ở đây chính là sự xâm đoạt: Đoạt mạng là sát
sanh, đoạt của cải là trộm cướp, đoạt tình là tà hạnh. Như vậy, đối
với chúng sanh hành giả tu "thân nghiệp thanh tịnh" sẽ không có bất
kỳ hành động xâm đoạt nào tổn hại đến tính mạng, tài sản, tình cảm
của họ. Quả báo đối đãi ở đây là chúng sanh sẽ được sống yên
ổn, đầy đủ sự tin tưởng bên hành giả, ngược lại hành giả cũng không
bị phiền nhiễu, rắc rối hay đau khổ khi không gây ác nghiệp. Tóm lại
là thành tựu "thân thiện nghiệp".
- Khẩu nghiệp:
Không nói dối, không lưỡng thiệt,
không ác khẩu, không ỷ ngữ.
Về cách phân tích từng chi phần cũng
tương tự như thân nghiệp. Ở đây chỉ cần nói chung về nhân quả, phước
báo trì giới và thành tựu bốn thiện giới về khẩu.
Với việc nói dối khiến chẳng
phân biệt được phải trái, làm cho người nghe đảo điên, nghi kỵ, tin
nhầm dẫn đến nhiều hậu quả khó lường. Quả báo việc này là bị tội
đọa sanh vào địa ngục hắc ám, dư báo sanh vào loài cầm thú ngu muội,
sanh vào loài người cũng ngu si mê muội… Nói lưỡng thiệt (gây chia rẻ)
dẫn đến thân bằng quyến thuộc chia lìa, nghi kỵ hiềm khích lẫn nhau,
quả báo thường rơi vào địa ngục canh thiệt (kéo lưỡi trâu cày như
trong kinh Địa Tạng diễn bày), đến khi được sanh làm người, dư báo
khiến rơi vào cảnh quyến thuộc chia lìa, kình chống lẫn nhau…Ác khẩu
khiến người sanh tâm nhiệt não oán hờn không dứt, dân gian thường vì
câu nói ác mà "sống để bụng, thác mang theo". Vì nhân gieo sự
oán hận cho người nên tội báo cũng sa vào địa ngục, hoặc sanh vào
loài quỉ miệng thường phát ra mùi hôi thúi, thân thể ghê gớm, xấu xí.
Đến khi hết tội hình trong ác đạo, sanh vào loài người cũng trong thân
hình xấu xí, môi hở, răng xiêng vẹo… Nói lời ủy mị, khiến người
hoang tưởng mơ hồ, thêu dệt chuyện không đâu, làm cho người nghe mất tín
tâm, mất chánh niệm, tội báo tương tự cũng sa vào chốn ngục tối tăm,
khi được sanh vào loài người cũng đảo điên, mờ tối…Tất cả các tội
nghiệp do khẩu gây ra, nếu đối với Tam bảo thì tội càng nặng hơn muôn
vạn lần, như việc nối dối với Bậc Thánh, ác khẩu hủy báng tam bảo,
lưỡng thiệt phá hòa hợp tăng như vậy tội sẽ kết vào một trong ngũ
nghịch hoặc thất nghịch, sa vào A-tỳ ngục.
Người tu thập thiện, trước ý thức
tội lỗi do khẩu gây ra, sau phát nguyện tu hành giữ bốn giới về khẩu.
Phước báo sẽ được quyến thuộc thương mến, lời nói ra được nhiều
người tin tưởng. Có những bậc tu thành tựu giới này, lại hay khéo
dùng lời khuyến khích người tu trì tin tấn, tụng kinh Đại thừa như Diệu
Pháp Liên Hoa, miệng người đó thường tỏa mùi thơm, chư thiên, quỉ thần
kính tin hộ vệ.
_Kết lại: Bốn giới kế tiếp là
thành tựu sự thanh tịnh về khẩu. Tu tập tránh nhân ác do lời nói đem lại.
Lời nói có ác có căn bản có bốn: dối trá, đâm thọc, ác độc, xảo
ngụy. Tuy nhiên, hành giả cần tìm ra điểm quan trọng bắt nguồn nhân tội
lỗi của khẩu, cũng như ác nghiệp về thân, ác nghiệp về khẩu căn cứ
trên sự gia hại, từ lời nói tác động vào tâm tư người: Nói tác động
tâm tư khiến người mờ mịt về mình (dối xưng là bậc thánh) hay về người
khác, sự vật khác, khiến người không phân biệt phải trái là dối; nói
tác động tâm tư khiến chia rẽ là lưỡng thiệt; nói tác động khiến
người đau khổ là ác khẩu; nói tác động tâm tư khiến người mất chánh
niệm đảo điên mờ mịch là ỷ ngữ. Như vậy, điểm quan trọng khi tạo
ác nghiệp về miệng là dùng lời tác động vào tâm tư để đưa đến một
kết quả tồi tệ cho người khác. Hiểu rõ điều này, hành giả tu
"khẩu nghiệp thanh tịnh" sẽ ngăn dè, cẩn trọng lời nói, chỉ
nói lời nhu hòa, lời tốt đẹp đem lại lợi ích cho tha nhân. Không vì bất
cứ lý do nào nói ra lời gây oan trái, chia rẽ, tổn hại đến tâm tư, công
việc của người khác, chúng sanh khác. Như vậy là thành tựu "khẩu
thiện nghiệp"
- Ý nghiệp:
Không tham, không sân, không si
(không tà kiến).
Tham sân si là tam độc, là cội gốc
phát khởi mọi tội lỗi. Phàm khi người ta nhấc chân, cử tay thảy đều
lấy ý làm đầu: "ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ ý tạo",
chính ý tạo nhân chủng cho ngã chấp, luân hồi. Nếu không có ý làm chủ,
không tác thành nghiệp nhân được, chỉ là cây khô, sỏi đá mà thôi. Người
tu thập thiện, nếu muốn mình có lộ trình tốt đẹp cho mai hậu, phải bắt
nguồn từ nơi ý, ở nơi ý này, nếu muốn ngăn chặn và lìa được tham,
sân, si, hành giả phải luôn tỉnh giác, ý thức được diễn biến tâm tư
mình trước sự việc. Tu tập ý không tham, không sân, không si để thành tựu
"ý thiện nghiệp". Tại sao ở đây không dùng "ý nghiệp thanh
tịnh". Vì ý quyết định rất lớn đến cảnh giới tái sanh hoặc
không tái sanh, nếu còn tái sanh, coi như thành tựu thiện nghiệp về ý,
thanh tịnh từng phần. Còn nói rốt ráo thanh tịnh, theo Duy thức học, A-lại-da
sẽ chuyển thành Bạch tịnh thức nghĩa là thành tựu "tuệ giải
thoát". Tu tập thiện nghiệp về ý đạt đến rốt ráo, điều
này sẽ được khai triển trong phần III.
_Kết lạïi: Tu tập thiện nghiệp
về ý là căn bản để thành tựu cả thiện nghiệp về thân và khẩu. Sở
dĩ có thân ác nghiệp, khẩu ác nghiệp cũng bắt đầu từ tham ý, sân ý,
si ý mà ra. Song hành giả cũng cần ý thức trọng điểm để dẫn đến
sai phạm. Vì sao có tham khởi, sân khởi, si khởi. Tất cả từ sự sai lầm
chấp có bản ngã, vì có bản ngã sanh ngã sở, từ ngã và ngã sở đó
sanh ngã ái, do ngã ái khống chế nên những gì tự ngã yêu thích sẽ khởi
ý thủ lấy khiến tham sanh, những gì trái lại ngã ái khiến sân sanh, và
ý niệm lưu trữ một cái ngã tồn tại, gìn giữ vun vén đó là tà kiến
hay là si. Hành giả tu tập " ý nghiệp thanh tịnh" phải luôn tỉnh
giác chân lý "vô ngã", nếu không đạt đến kiến tri vô ngã, việc
tu hành thân thiện nghiệp, khẩu thiện nghiệp cũng có thể thành tựu, nhưng
chỉ đạt phước báu nhân thiên và có thể hoàn thành ý thiện nghiệp, nhưng
chưa đi đ?n chỗ "ý nghiệp thanh tịnh".
III. Thứ bậc tu tập:
Thông thường, tu pháp thập thiện
được đa số Phật tử nghĩ như là một pháp môn cầu phước báu sanh
thiên. Thực chất như phần trên đã nêu: "Ví như tất cả thành,
ấp, xóm, làng đều y địa đại mà được an trụ, tất cả trăm hoa, cây
cỏ bụi rừng cũng nương tựa địa đại ấy mà được sanh trưởng; Thập
Thiện Nghiệp đạo cũng lại như thế. Tất cả Nhơn Thiên cũng y vào đó
mà được an lập, tất cả Thanh Văn, Độc Giác Bồ Đề, các hạnh Bồ
Tát, tất cả Phật Pháp đều chung vào đại địa thập thiện này mà được
thành tựu." Nghĩa là Thập thiện là pháp môn căn bản để thành
tựu vạn hạnh từ thấp lên cao, từ địa vị nhân thiên đến Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát và Phật Đạo. Vì sao pháp này lại đặc thù như vậy?
Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu qua cách lập pháp. Giáo lý trọng điểm
tu tập của Phật giáo đều y cứ theo nhân quả, như Tứ Thánh Đế lập
pháp trên nhân quả thế gian và xuất thế gian: Khổ, Tập là nhân quả
trong Tam giới luân hồi; Diệt, Đạo là nhân quả của xuất thế gian. Thập
Thiện, nói đủ là Thập Thiện Nghiệp Đạo, nghĩa là con đường hạnh
nghiệp căn cứ trên mười điều thiện. Con người đối với thân, khẩu,
ý gây ra vô lượng vô biên điều ác, tuy nhiên tổng quát phân chia không
ngoài mười chi phần: ba chi thuộc về thân (sát sanh, trộm cướp, tà hạnh),
bốn chi thuộc về khẩu (vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ), ba
chi thuộc về ý (tham, sân, si hay tà kiến). Ngược lại mười điều ác
là mười điều thiện, tất cả đều y cứ theo nhân quả! Tạo mười ác
nghiệp nặng thì rơi vào tận cùng địa ngục trong nhiều kiếp, nhiều ngàn
kiếp v.v… nhẹ thì rơi vào ngạ quỉ súc sanh, hay làm loài người trong
tư thái thấp hèn. Ngược lại với mười điều ác là mười điều thiện.
Căn cứ vào nhân quả, tu mười điều thiện thành tựu phước đức, công
đức theo thứ bậc như sau:
Sơ tâm tu tập, chỉ ngăn dứt mười
điều ác, hiện đời (hoặc đời sau sanh vào cõi người) sẽ được hạnh
phúc an vui tương ứng với nhân quả như sau:
- Không sát sanh:
Thân thường không bệnh, mệnh sống lâu dài, thường
được phi nhân (quỉ thần) ủng hộ, thường không
ác mộng thức ngủ an vui; oán nghiệp được tiêu trừ, oán thù tự
giải; không sợ sa vào ba đường dữ.
- Không trộm cướp:
Giàu có của cải, không bị
năm thứ cướp hại (vua quan, giạc, nước, lửa, con hư). Nhiều người
thương mến, không bị người phụ bạc, lừa gạt. Mười phương khen ngợi,
tiếng lành đồn khắp. Không lo bị tổn hại, vào nơi đông người không
sợ hãi, hổ thẹn.
- Không tà dâm:
Các căn điều thuận, xa lìa
sự rộn ràng, người đời khen ngợi. Vợ (hay chồng) không ai xâm phạm, cũng
không phụ bạc.
- Không vọng ngữ:
Được người đời tín phục.
Miệng thường tỏa mùi thơm. Lời nói tín chứng, người trời tín
phục. YÙ vui thù thắng, tâm không chao động.
- Không lưỡng thiệt:
Thân bất hoại, không ai làm hại được. Bà con
bất hoại, không bị chia rẽ. Tâm lực tu kiên cố, lòng tin bất hoại.
Được bằng hữu tốt, thiện tri thức tốt, không lừa dối nhau.
- Không ác khẩu:
Lời nói hợp lý, đẹp đẽ,
có ích lợi. Người nghe sanh lòng vui, tin tưởng, không chê bai.
- Không ỷ ngữ:
Thành tựu như thật trí, đối
đáp biện tài, có oai đức tối thắng với nhân thiên, không hư vọng.
- Không tham:
Ba nghiệp tự tại, các căn đầy
đủ. Của cải tự tại, đáp ứng mong cầu, oán tặc không cướp đoạt
được. Đuợc phước báu thù thắng.
- Không sân:
Trong lòng không bị tổn não, sân hận, kiện tụng. Tâm nhu
hòa, khí sắc tươi nhuận. Người không oán ghét, cảm thấy an lạc khi đựơc
sống gần hành giả.
- Không si:
Trực tâm chánh kiến, xa hẳn sự ngờ vực kiết hung. Thâm
tín nhân quả, thà bỏ mạng chứ không làm điều
ác. Được gần gủi thiện tri thức, kiến giải vô ngại. Duy nhất qui y
Phật, không lạc ác đạo.
Sau khi mãn thân này, sẽ được sanh thiên. Phước
được sanh thiên hầu như là pháp ấn định của
Thập thiện nghiệp, do đó chư Phật t? thường nghĩ "muốn sanh
thiên, tu theo thập thiện". Tuy nhiên, điều này không hẳn như vậy.
Người tu thập thiện phước báu lớn, có thể sanh thiên, nhưng cũng có
khi sanh vào cõi người hoặc các cõi khác tùy nguyện lực của mình. Thành
tựu ấy thuộc phước báu. Nếu hành giả trong quá trình tu tập, lập
công bồi đức theo Thánh Đạo: Thanh Văn, Bồ Tát
và Phật Thừa thì nhân quả sẽ chuyển theo hướng khác. Khi đó, thân, khẩu thanh tịnh nhiếp về giới; ý nghiệp nhiếp
về định; giới định thành tựu, tuệ sanh. Đây là con đường tu tập
Tam vô lậu học.
a. Thanh Văn Thừa:
Hình thức tu Thập Thiện kết hợp với 37 phẩm trợ đạo (Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ
căn, ngũ lực, bát thánh đạo phần, thất bồ đề phần). Dùng niệm xứ
để thanh tịnh tâm, tiến đến "Niệm xứ quán" tức là nhiếp
tâm và quán tâm. Như vậy, hành giả sẽ thanh lọc tâm tư, nâng mức độ
tỉnh giác của mình lên. Khi tỉnh giác, hành giả dễ dàng pháp hiện để
dẹp bỏ những bất thiện ý sanh khởi, và ngăn chặn khiến ý bất thiện
không sanh, trãi nghiệm qua Tứ chánh cần. Từ đó tiến dần lên tứ như
ý túc: Lúc này mức độ định tâm và chánh kiến
đã ổn định. Ngang đây có thể khai triển "Dục như ý túc" để
hướng đến con đường Phật Thừa, Bồ Tát Đạo, hay tiếp tục tu theo
Thanh Văn Pháp. Nếu tiếp tục theo pháp Thanh Văn, nương trên mảnh đất định,
phát triển tín căn, thúc đẩy niệm lực (giai đoạn tu ngũ căn, ngũ lực)
để thành tựu Thiền định, hoặc sử dụng trạch pháp để đi theo thiền
quán. Ở đây cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa định và
quán (nghĩa là kết hợp tất cả các chi phần của 37 trợ đạo phẩm để bổ trợ nhau), vì "Định không
tuệ thì thành khô định, tuệ không định
thì thành cuồng tuệ". Rốt ráo sẽ thành tựu "ý thanh tịnh",
tức giải thoát, Niết Bàn.
b. Bồ Tát thừa:
Tu thập thiện kết hợp với Lục độ để cầu Vô thượng giác. Khi này,
giới được triển khai tích cực như trong Bồ Tát Giới. Sự kết hợp
tu tập có thể trình bày theo như văn kinh Thập Thiện:
1. Bố thí độ: Chẳng
những không sát sanh mà còn khởi lòng thương chúng sanh như con đỏ, đem lòng từ hộ độ mạng khiến được an vui, đây
là bố thí vô úy. Bồ tát chẳng những không trộm cắp mà còn đem
vàng bạc, của báu bố thí cho khắp tất cả, cho đến bố thí vợ con, đầu mắt tai chân để cầu Phật
đạo. Nhưng muốn bố thí viên mãn như vậy, phải lìa tham dục, tham
ái. Điều này đã hoàn thành ở chi phần thứ 9 (không tham) khi hành giả
tu Thập Thiện. Vì bỏ tà hạnh, lìa gian dối, không tham sân…mà bố thí
nên khiến người tin tưởng, không phải uổng phí lời vẫn có thể thu phục
nhân tâm…(phỏng trích theo văn Kinh Thập Thiện)
2. Lược nói năm độ sau: Trì
giới trang nghiêm, thập thiện đã hoàn thành
thân, khẩu thanh tịnh, nay tu tập Bồ tát hạnh, phần trì giới sẽ
nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, bên Bồ tát, không những giữ gìn không tổn hại
chúng sanh mà còn phải cứu độ để cho chúng sanh
không bị tổn hại về thân mạng, tài sản, tinh thần. Do đó, khi tu thập thiện, không làm điều ác tức là đã
giữ giới, nhưng tiến lên Bồ Tát hạnh, giữ giới không những là không
phạm điều ác, mà còn phải đem cả thân mạng ra làm điều thiện, xả thân để đem lại hạnh phúc cho chúng
sanh, khiến chúng sanh được độ tới chỗ an vui, như vậy mới xem là
trì giới trong lục độ. Theo Bồ Tát hạnh, tinh tấn
độ sẽ dẫn đầu, tinh tấn hành bố thí, tinh tấn giữ gìn giới,
tinh tấn tu tập thiền định, tinh tấn trao dồi, mở
mang trí huệ. Người muốn thực hiện được các điều khó ấy, phải có
nhẫn lực, ý chí. Như vậy, tinh tấn và nhẫn nhục là hai pháp thiết
yếu căn bản để hoàn thành bốn pháp còn lại.
Muốn thành tựu nhẫn lực, ý niệm về cái tôi kiên cố phải từ bỏ,
ngã ái phải từ bỏ, điều này phải thành tựu nơi giới thứ 10 (không
si, tức không tà kiến) của Thập Thiện.
Kết lại: Lấy Thập Thiện làm thềm thang, làm
giá đỡ để tiến lên Bồ Tát Hạnh, khi đó, nhờ phước báu sẵn tạo,
công đức tu hành dễ dàng tiến triển hơn và nâng cao hơn. Chẳng hạn
như không trộm cắp sẽ không bị tổn hại, khi không bị tổn hại thì
lòng sân không khởi, khi đó đem lòng nhu hòa bố thí sanh phước báu lớn.
Từ đó, chuyển sang đời sau Bồ Tát sanh vào nơi sang giàu, lại lấy lòng
bố thí trợ giúp người làm niềm vui, khiến lòng từ sanh khởi và phát
triển.v.v… Các chi phần khác cũng vậy. Do đó nói Lục độ cũng hoàn
thành từ nơi Thập Thiện.
Tóm lại, Thập Thiện không phải
chỉ riêng là pháp môn tu cầu phước báu cõi trời như bao nhiêu người
thường tưởng, mà Thập Thiện là pháp tu của tất cả mọi hành giả từ
việc cầu phước cõi người, trời cho đến tu Thanh Văn, Bồ Tát và cầu
Vô Thượng Bồ Đề. Chúng sanh vì mang ý niệm có một cái "tôi" tồn
tại nên trôi lăn sanh tử luân hồi, lại trong luân hồi thấy mình nhỏ
bé đối với Tạo Hóa nên tìm cầu nương tựa nơi ở một đấng Tạo hóa
tối cao nào đó v.v…Vì ngã tưởng sai lầm đó mãi chịu khổ đau. Khi hiểu
được Thập Thiện Pháp, thấy rõ được sự khổ vui trong cõi hữu vi đều
đi theo một luật tắc nhất định, đó là "nhân quả". Khi đó thừa
hiểu phước tội do mình, làm thiện hưởng thiện, làm ác chịu quả ác.
Đó là nói hành giả chưa thấu triệt lý vô ngã, chỉ tin nhân quả nên
tìm hạnh phúc cho mình bằng cách gieo nhân lành. Đến khi thấu hiểu
"Vạn pháp giai không" , tất cả đều giả huyễn: "Không phải
của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi", chừng
đó khởi tâm cầu giải thoát, xa lìa tham, sân, si cầu thanh tịnh giải
thoát. Khi đó tu tập ba nghiệp trọn thanh tịnh:
"Tam nghiệp hằng thanh tịnh
Đồng Phật vãng Tây Phương"
Tuy nhiên, muốn thân khẩu thanh tịnh,
tuy có khó nhưng vẫn dễ hơn nhiều so với thành tựu ý thanh tịnh. Song nếu
đã đạt được ý thanh tịnh rồi, hành giả có nói nín động tịnh gì cũng
là "Vô tác nghiệp", nghĩa là: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành"./.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/ thapthien.htm
|
|