Lâu nay không ít người cho rằng khi trở
thành người Phật tử thì công việc kinh doanh chỉ mang tính cầm chừng, bởi
cuộc sống này là Vô thường, Vô ngã, Duyên sinh cho nên phải thường quán
niệm thiểu dục tri túc để thân tâm được hạnh phúc an lạc giải thoát! Đồng
với quan niệm này, bạn Khánh đang công tác ở NXB chính trị quốc gia cũng
bày tỏ quan điểm: “…Phải chăng Phật giáo chủ trương Tư tưởng tiết dục
và đạo Lão không đề cao chữ phú…nên đã tác động phần nào đến nền kinh tế
nước nhà?..”
Vậy Phật giáo hiện nay phải chăng đã không còn phù hợp với xu hướng phát
triển “công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” và càng không thể
cạnh tranh trên thương trường quốc tế WTO?
Có thể nói, đây là một vấn đề lớn cho
ngành Hoằng pháp đang phải đối mặt với nhận thức mới của số đông lớp trẻ
công chức và doanh nghiệp Phật tử đang “vướng” phải giữa giáo lý, giới
pháp đã thọ và thực tế cuộc sống. Vấn đề được đặt ra ở đây, cái gì phù hợp
cái gì cần phải hoàn thiện và cái gì cần thay đổi trong giảng dạy, nhận
thức và tu tập. Nếu không đáp ứng được những vấn đề nêu trên thì Phật giáo
Việt Nam nói riêng và Đạo Phật nói chung sẽ gây nên sự “ngộ nhận”
cho những ai quan tâm và đang song hành cùng đạo lý
giải thoát là có thể xảy ra!
Thiết nghĩ đây là một vấn đề cần được quan
tâm và chia xẻ từ Chư Tôn Đức giáo phẩm và Tăng Ni Phật tử để giải tỏa
những vướng mắc tương tự như hệ thống hành chánh xã hội “hộ khẩu đòi
nhà, nhà đòi hộ khẩu” trước đây đã được tháo gỡ.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là cư sĩ làm
kinh tế có trái lại quan điểm giáo lý
và giới luật hay không? Còn làm thì sẽ theo phương thức nào? Kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa hay Kinh tế Tư bản hoặc nằm ngoài hai
hệ thống đó để đời sống được nâng cao và cũng là trách nhiệm của mọi công
dân giúp cho đất nước phồn thịnh mà Phật giáo Việt Nam nói chung và ngành
Hoằng pháp nói riêng không thể đứng ngoài và cần phải có sự phúc đáp cho
hiện tại và tương lai qua phương thức giảng dạy đồng bộ từ Trung Ương đến
cơ sở để người Phật tử vừa kinh doanh vừa
tu tập thoải mái an lạc.
Trả lời được câu hỏi trên chúng ta cần
phải tách giáo lý, giới luật, tu tập giải thoát và khái niệm ra từng phần.
1. Đạo lý giải thoát:
Đức Phật chủ trương nền tảng giáo lý và
con đường giải thoát của Ngài không phân biệt xuất gia hay tại gia, miễn
là người đó hội đủ yếu tố không còn bị ràng buộc bởi cuộc sống để tập hạnh
ly dục, ly bất thiện pháp… xuyên qua khái niệm
Vô ngã, Tánh không, Niết Bàn, mọi sự vật
hiện tượng đều do duyên sinh, không có gì thường hằng vĩnh cửu. Nên lúc
nào cũng phải quán niệm đối với thân “tam thường bất túc”
bởi nếu mọi thứ đầy đủ hết là xem như khó nhiếp tâm và có nguy cơ bị đắm
chìm trong “ngũ dục”
tức là mỗi khái niệm được hình thành đều có liên hệ mật thiết với các yếu
tố pháp đối trị và giới luật. Vì vậy, tất cả những ai muốn quán triệt tư
tưởng đó đều phải áp dụng theo tính triết lý là ít muốn, và không thụ
hưởng vật chất để tâm hồn được thanh cao.
Cho nên các điều kiện trên dường như dành cho người Xuất gia, chỉ một số
ít Cư sĩ có đủ điều kiện.
Vì vậy, đối tượng thường hướng đến của
hàng xuất gia là Diệu pháp tối thượng. Trong khi con người lại có khuynh
hướng đi tìm sự trường cửu trong biến động của thế giới.
Từ đó bám víu vào từ thân thể của mình cho đến sáng tạo ra những ý niệm
tồn tại để tranh danh đoạt lợi, đó là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Thậm
chí những ý
tưởng thụ hưởng còn trong vi tế cũng bị xem bất thiện.
Đó là mấu chốt quan trọng của vấn đề nên
đức Phật đã tách khái niệm nhận thức, giáo pháp, tu tập cho số đông người
tại gia để sống thuận theo xã hội và đúng với bản chất vốn có trong con
người, từ đó lồng nguyên tắc đạo đức vào cuộc sống để con người chấp nhận,
đó cũng là khuôn phép giúp cho xã hội ổn định và phát triển.
2. Đạo lý nhân thừa:
Đức Phật đã quán niệm và an trú hỷ lạc bảy
tuần thất sau khi ngồi thành đạo dưới cội Bồ-đề, rồi sau đó Ngài đã muốn
vào vô dư y Niết-bàn, liền lúc đó chư Phật ba đời liền dùng tiếng Phạn an
ủi và khuyên Ngài nên dùng phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Đồng thời
chư Thiên cũng ba phen cầu thỉnh.
Dữ kiện trên cho chúng ta thấy sự uyển chuyển giáo pháp Phật giáo đã
có từ ngàn xưa và bắt đầu trước khi Ngài quyết định chuyển pháp luân. Nên
giáo pháp của Ngài cũng đã chia ra cho xuất gia và tại gia rất rõ ràng: “Các
ngươi phải siêng năng tu các điều thiện, nhờ tu điều thiện mà mạng sống
lâu dài, nhan sắc thắm tươi và được an ổn, khoái lạc, của báu dồi dào, uy
lực đầy đủ…”.
Thông điệp này cho thấy Đức Phật không chỉ quan tâm cho việc giải thoát mà
còn chăm sóc kỹ tư tưởng và cuộc sống cho “lãnh đạo các nước” làm
thế nào để sống vui sống khỏe trong hiện tại nhằm mang lại cuộc sống an
lạc thái bình cho muôn dân.
Đối với dân thì Ngài dạy: “Phật
tử tại gia được phép làm bất cứ việc gì của xã hội, miễn là phải áp dụng
phương thức “Chánh mạng”. Không làm giàu trên xương máu của người khác,
không vì lợi nhuận cao mà đánh mất đi chữ tín. Đồng thời phải nói lời chân
thật là nguyên nhân sanh phước, và cũng là tạo niềm tin cho đối tác về lâu
dài. Tâm được an vui trong kiếp này và vị lai; sẽ có lợi lộc, quyền chức,
giàu sang và nhiều bạn lành”.
Nói lời chân thật và kinh doanh không gian lận làm cho đối phương dễ tin
tưởng nơi ta. Phải chăng đó là nguyên tắc đạo đức cho giới doanh nghiệp
mà ngày nay thế giới đang hướng đến là WTO, hiện tại Việt Nam đã là thành
viên thứ 150 của chợ quốc tế này! Xem ra nguyên tắc đạo đức đúng ở mọi
không gian và thời gian. Nếu đi ngược lại các nhà doanh nghiệp sẽ phá sản
bởi không dùng tài năng và chất lượng hàng hóa để giao dịch với đối tác mà
dùng tiền để khuynh loát hoặc chi phối nhân viên công vụ làm cho họ bị
biến chất, nhằm qua mặt pháp luật để gian lận thương mại.
Điều đó xảy ra 3 vấn đề cho bản thân và sự
nghiệp:
1/ Uy tín bị giảm.
-
Chất lượng hàng hóa bị giảm sút.
-
Sức cạnh tranh không có.
2/ Thân thể bị suy kiệt.
-
Luôn sống trong âu lo.
-
Dễ mắc bệnh rối loạn tim mạch, tiểu đường và huyết áp cao… do bị
Stress.
3/ Phá sản.
-
Chổ nương tựa để gian lận thương mại không còn tại chức.
-
Chất lượng hàng hóa không đúng với sự thật…
Sau khi gia nhập WTO thì điều này sẽ không
tồn tại, nên chính phủ đã dự đoán có khoảng 40% cá thể và doanh nghiệp sẽ
phá sản bởi không đáp ứng yêu cầu chung của thế giới sau khi Việt Nam đã
chính thức là thành viên.
Điều đó cho thấy, những gì sai sự thật,
không uy tín, và phát triển bền vững thì phải nhường lại cho sự tín nhiệm
và thương hiệu phải đi đôi với chất lượng… yêu cầu đó của chợ thế giới
ngày nay hoàn toàn phù hợp với năm nguyên tắc sống của người cư sĩ
và nền tảng đạo đức “chánh mạng” để làm kim chỉ nam cho cuộc sống
và phương thức kinh doanh đồng thời đạo lý đó cũng là cách giáo dục con
người không phải chỉ biết lo riêng cho tổ quốc mình mà còn trở thành công
dân toàn cầu.
3. Phương thức kinh doanh nào?
Khảo sát hai yếu tố căn bản của người đệ
tử Phật cho thấy giáo lý của Ngài không như người ta lầm tưởng: “bể khổ
mênh mông sóng ngập trời…”, “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, đói ăn
khát uống mệt ngủ liền…”, “Tri túc tri nhân tuy ngọa địa thượng du
vi an lạc…” những quan điểm đó dễ bị hiểu theo chiều hướng tiêu cực,
làm mất động lực chiến đấu, sản xuất hoặc vươn lên để tồn tại và phát
triển bền vững. Nhưng thật ra nó chỉ là những pháp đối trị chứ không
phải phương châm sống hay chủ nghĩa tiêu cực buông xuôi cho “thiên mệnh”
(phận bèo đâu cũng là bèo, lênh đênh đâu cũng vẫn là lênh đênh) của người
Phật tử.
Vì vậy, chúng ta nhìn ra bên ngoài để làm
phép so sánh giữa Việt Nam và một số Phật tử các nước: Nhật, Hàn và Thái
Lan… họ là những giám đốc hoặc cổ đông của những tập đoàn tầm cỡ thế giới.
Họ không phải lây hoay giống doanh nghiệp Phật tử Việt Nam với những mâu
thuẫn đang tồn tại trong tâm trí đại đa phần kinh doanh là gắn liền với
gian lận: “Từ thuốc Tây, xăng dầu cho đến sữa uống cũng có nhiều loại
giả mạo hoặc kém chất lượng…” nên chỉ mua bán cầm chừng để ít mang tội
với giới thứ tư đã thọ?
Có thể nói trong thời gian qua xã hội Việt
Nam người dân có thu nhập thấp chiếm 70% nên khắp nơi xảy ra tình trạng
làm ăn theo “thời vụ” hoặc mua đứt bán đoản để phủi trách nhiệm.
Ngày nay, không thể nghĩ và sống theo lề lối cũ như thế mãi, vì chúng ta
đã có mặt tích cực của hậu WTO mang lại cơ hội. Nhưng tất cả những thách
thức vẫn còn đang ở phía trước
là không nhỏ khi nền kinh tế mới bắt đầu.
Vậy câu hỏi được đặt ra ở đây cho người
Phật tử sẽ áp dụng phương thức nào trong kinh doanh? Cơ chế thị trường
định hướng xã hội hội chủ nghĩa hay tư bản để được làm giàu? Thiết nghĩ,
điều đó không có gì phải bận tâm như Chủ tịch Mao Trạch Đông từng phát
biểu: “Mèo trắng hay đen không quan trọng miễn là bắt được chuột”
điểm này hoàn toàn phù hợp với Phật giáo. Không khuyên người ta sống theo
cơ hội hay đối phó tình thế bởi cậy quyền ỷ thế thì cũng được một lúc “quan
nhất thời dân vạn đại”, nên phải sống và làm việc theo luật pháp. Quan
điểm đó giúp cho con người tâm trí thoải mái đa phương diện và dẫn đến an
lạc hiện tại và mai sau.
Điểm này gợi lên cho ngành Hoằng pháp một
nhiệm vụ đáp ứng cho tầm cao mới:
1/ Soạn ngay những bài kinh ngắn gọn dễ
hiểu từ Tam Tạng thánh điển để giới doanh nghiệp ứng dụng và tu tập trong
mọi hoàn cảnh.
2/ Phát huy thêm nữa vai trò sách nói và
trực tuyến những buổi giảng trong tuần.
3/ Tổ chức giao lưu pháp thoại cho nhiều
đối tượng…
Tóm lại, người cư sĩ đang sống và tu tập
theo nhân thừa, thì không hà cớ gì giảng sư cứ đem pháp xuất thế khuyến
khích cho họ tu, để rồi trong tâm tư của họ lúc nào cũng bị mâu thuẫn nửa
làm ăn nửa tu tập để được giải thoát. Điểm này nên đặt lại vấn đề cho toàn
ngành Hoằng pháp để có sự nhất quán từ Trung Ương đến Cơ Sở.
Bản chất của tiền bạc không xấu ác, nhưng
do con người dùng nó không đúng mục đích nên mới xảy ra lắm chuyện thương
tâm. Nên Đức Phật không hề lên án sự giàu có thịnh vượng, mà còn dạy cho
phương pháp sống, kinh doanh, và tu như thế nào để được sinh thiên khi mãn
báo thân.
Pháp của Ngài hoàn toàn sinh động, đúng mọi lúc mọi nơi cho dù là thời đại
nào!
Qua các bài kinh căn bản cho thấy Đức Phật
rất quan tâm đến giới tại gia, vì họ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hưng
thịnh và phát triển hay suy vong của Tăng đoàn
cho nên cần phải đặt đúng trách nhiệm hộ pháp của họ và vai trò lãnh
đạo tinh thần của tu sĩ rõ ràng đó là một nhiệm vụ mới của ngành Hoằng
pháp để đáp ứng sự mong đợi của số đông sau hội nhập WTO, có như thế khẩu
hiệu “Trường sơn gọi biển đáp lời, Việt Nam, Phật giáo muôn đời đi
chung” hay “mái Chùa che chở hồn dân tộc” mới phát huy hết tính
phụng sự để song hành cùng dân tộc!
15/11/2006
Lệ Thọ
Báo Thanh Niên, diễn đàn “Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ” 28.05.2006
http://www.buddhismtoday.com/viet/kinhte/cusi_kinhte.htm