- KINH TẾ PHẬT GIÁO - MỤC
TIÊU VÀ PHƯƠNG THỨC
Phật giáo là một tôn
giáo xuất phát từ cơ sở sâu xa là hiện thực sống sinh động của chính
mỗi chúng sanh. Cho nên sự quan tâm đến cuộc sống, đến phương thức tồn
tại, sinh nhai của chúng sanh đó cũng là điều mà từ lâu đức Phật đã
từng chỉ dạy. Trong kinh Trường Bộ, đức Phật đã dạy vua Mahàvijita rằng:
"Những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về nông nghiệp và mục
súc, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy hột giống và thực vật; những
vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương hãy
cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ nhà
vua nỗ lực quan chức, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vật thực và
lương bổng. Và những người này chuyên tâm vào nghề riêng của mình sẽ
không nhiễu hại quốc độ nhà vua. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được dồi dào,
quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp- Kinh KUTADANA". Từ lời dạy này
của đức Phật, có thể thấy đời sống sinh hoạt của con người cũng là
một vấn đề được đề cập khá sớm trong Phật giáo.
Đọc lại lịch sử phát triển của
Phật giáo, lẽ tất nhiên ai cũng biết rằng, chỉ có Phật giáo Bắc phương
mới tham gia hoạt động sản xuất, tham gia làm kinh tế. Đại diện tiêu
biểu và cũng là người đầu tiên dám đứng lên kêu gọi chư Tăng tham
gia lao động sản xuất chính là Tổ Bách Trượng(720 – 814) với phương
châm thời danh: "một ngày không làm, một ngày không ăn". Nội hàm
của mệnh đề này mang ý nghĩa rất rộng nhưng ít nhất đã khẳng định
một điều rằng: thừa nhận sự tham gia lao động sản xuất, thừa nhận
hoạt động kinh tế trong chốn Thiền môn.
Thế nhưng, ngay từ buổi đầu, vấn
đề lao động sản xuất hay làm kinh tế trong Phật giáo dường như luôn gắn
kết với pháp môn tu tập; xem việc lao động sản xuất như một pháp
hành, như một yếu tố phụ hay chính xác hơn không xem việc lao động sản
xuất là cơ sở chính yếu cho sự tồn tại của đời sống Tăng đoàn.
Có thể nói, từ việc không coi trọng này cùng với quan niệm ly dục đã
dẫn đến sự thiếu quan tâm hay không đầu tư đúng mức cho sự phát triển
kinh tế của Phật giáo.
Từ sự nhận thức đó đã chi phối
và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của Phật giáo trong nhiều thời
kỳ lịch sử và rõ nét là sự ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế
của GHPGVN nói chung và hoạt động kinh tế trong nhà chùa nói riêng.
Thật vậy, trong hoạt động kinh tế
của Phật giáo ở Việt nam từ trước đến nay, hầu như trong suy nghĩ của
nhiều người thì ai cũng nghĩ rằng đó là một việc làm nhằm cải thiện
đôi chút chất lượng cuộc sống trong chốn Thiền môn. Hiếm khi có một
cái nhìn nghiêm túc và coi trọng vấn đề này. Bởi lẽ, trong thực tế hoạt
động kinh tế của Phật giáo ở Việt nam từ trước đến nay đều nằm
trong khuôn khổ của tư duy "nông nghiệp"; mang tính tự cấp, tự
túc, chưa dám đề ra những kế hoạch, những mục tiêu cao hơn nhu cầu
"đủ để tồn tại". Vì sao như vậy? Phải chăng, vấn đề vướng
mắc chính ở chổ chưa định hướng rõ ràng về chiến lược, về mục
tiêu trong khi tham gia hoạt động kinh tế?
Theo thiển nghĩ của chúng tôi, có
lẽ một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế sự phát triển trong
hoạt động kinh tế của Phật giáo Việt nam, đó là tính chưa cân đối nếu
không nói là sai lầm trong việc xác định mục tiêu làm kinh tế. Nếu như
chỉ với một mục đích duy nhất là đem đến một chút hoa lợi cho nhà
chùa, cải thiện phần nào đời sống của Tăng chúng thì việc sản xuất
theo kiểu giản đơn, mang tính thủ công như hiện nay thì tạm thời khả dĩ
chấp nhận. Thế nhưng, nếu thử đề ra một mục tiêu cao hơn như làm
kinh tế nhưng với mục đích là sử dụng lợi nhuận thặng dư để xây dựng
chùa chiền, góp phần vào việc bảo tồn các di sản văn hoá, thực hiện
các chương trình an sinh xã hội hoặc giả là trợ cấp cho Tăng Ni sinh du học…
thì có thể nói, hoạt động kinh tế theo kiểu kể trên không thể đáp
ứng nổi. Trong khi đó, trên thực tế đối với những vấn đề mang tính
chiến lược, mang tính chủ động và bền vững thì sự vững chắc về cơ
sở kinh tế là một điều kiện tối quan trọng, giữ vai trò quyết định.
Đơn cử một trường hợp, để đào tạo một con người từ khi xuất gia
cho đến khi thành công trên đường tu tập và nhất là học vấn, nếu như
chỉ dựa vào sự hỷ cúng "tùy tâm" của tín đồ mà không hề
có một sự hỗ trợ hợp lý và chính đáng mang tính chiến lược từ phía
Thầy Bổn sư, từ các cấp Giáo hội thì có thể nói là khả năng thành
công rất thấp nếu không nói là hoang tưởng. Cũng vậy, muốn khởi xướng
một dự kiến, hoạch định mang tính bền vững nào đó mà mọi nguồn
kinh phí đều nằm ở lòng hảo tâm của thập phương bá tánh thì thời
điểm hoàn thành có thể xem như là vô hạn định. Mặt khác, trong tình
hình hiện nay, đã có một số bộ phận giáo hội ở cơ sở tuy có mày
mò xây dựng một vài mô hình kinh tế và tương đối có gặt hái một
vài thành công, nhưng do không xác định rõ mục tiêu nên chưa giải quyết
một cách thỏa đáng, đúng như pháp từ nguồn lợi nhuận thu được.
Cho nên có thể thấy, vấn đề mục
tiêu khi tham gia hoạt động kinh tế là một vấn đề mang tính quyết định
từ qui mô, phạm vi cũng như hiệu quả thành công trong hoạt động kinh tế.
Ở đây, trong xu thế chung của thời đại mới, trong không khí thành công
của Đại Hội Phật Giáo nhiệm kỳ V, nếu như Chư tôn Đức lãnh đạo
Giáo hội nói chung và Ban Kinh Tế - Tài Chánh của giáo hội nói riêng nỗ
lực xây dựng một một tiêu mang tính chiến lược trong hoạt động kinh tế
của mình thì có thể nói là một tín hiệu khả quan cho một tương lai phát
triển.
Theo người viết, cần phải xác định
những mục tiêu trong tầm tay và sau đó vươn tới những mục tiêu mang
tính chiến lược phát triển. Cần phải xây dựng một mô hình kinh tế
không chỉ bó buộc ở phạm vi cung cấp những nhu yếu phẩm cho đời sống
sinh hoạt chùa chiền, phục vụ cho lễ nghi, tín ngưỡng mà cần nhắm tới
những mục tiêu thuộc nhu cầu xã hội. Điều này, Phật giáo ở nhiều nước
trên thế giới trong những năm gần đây đã áp dụng và đã có những
thành công lớn lao. Chẳng hanï như, Phật giáo tại Hàn quốc hiện nay đã
có những cở sở kinh tế rất lớn, đem đến những thành quả kinh tế
– xã hội rất cao: như thành lập Thương xá, Tổ hợp tín dụng, Công ty
dược phẩm, các trường Đào tạo ngành nghề …vv..( Theo, Tôn giáo và
đời sống hiện đại, tâp 2, Nxb. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà
nội 1997). Chúng tôi cũng được biết trong những năm gần đây, đã có một
số tự viện đã thử xây dựng thí điểm tương tự mô hình này như tham
gia sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, may mặc, mở các cơ sở đào tạo
ngành nghề, kinh doanh văn hoá phẩm… tuy các loại hình kinh tế Phật giáo
này là một điểm sáng cần được nhân rộng, nhưng nhìn chung đang gặp
nhiều bế tắc vì nhiều nguyên nhân.
Trong những nguyên nhân cốt lõi
theo chúng tôi, đó chính là chưa có một phương thức làm kinh tế có tính
hiệu quả, thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn, đời sống đạo đức
và quan trọng hơn hết là tấm lòng cống hiến vì Đạo. Trước hết, về
vấn đề chiến lược làm kinh tế, theo chúng tôi, các cơ quan đầu ngành
của giáo hội mà cụ thể nhất là Ban Kinh Tế - Tài Chánh nên chăng cần
phải xác định một cách thức sản xuất và kinh doanh có hiệu quả trong
thời đại mới. Chẳng hạn như, cần phải mở rộng phạm vi sản xuất
kinh doanh, không nên tự trói mình trong những loại hình kinh tế theo kiểu
vừa và nhỏ như đã nêu. Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta
dám nhắm đến những ngành kinh tế mang tính phục vụ cho nhu cầu số đông
của xã hội như xây dựng các nhà máy, các công xưởng, các tổ hợp và
đa dạng hoá loại hình kinh doanh. Ở đây, thử lấy một ví dụ thô thiển,
như các dịch vụ du lịch văn hoá, sản xuất hoặc kinh doanh lương thực
thực phẩm xuất khẩu, thậm chí phải dám nghĩ đến những ngành công nghệ
cao như máy móc, kỹ thuật, tin học, in ấn…
Nếu đã nhắm tới một chiến lược
phát triển mang tính tầm cao như vậy thì lẽ tất nhiên cần phải có những
điều kiện tương đồng đ? xây dựng, duy trì và phát triển. Điều đầu
tiên trong mọi vấn đề, đó là vốn. Không thể hoạch định bất cứ điều
gì trong hoạt động kinh tế nếu như điều kiện cơ bản này chưa giải
quyết ổn thỏa. Vấn đề giải quyết vốn để hoạt động, theo chúng
tôi có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau. Có thể phát xuất từ sự
dành dụm, tích lũy của các đơn vị giáo hội cơ sở, hoặc có thể vay từ
các cơ quan tín dụng của nhà nước, từ cách thức tổ chức góp vốn
theo theo kiểu cổ đông với các nhà hữu tâm hay đồng bào Phật tử; nếu
như chúng ta có một luận chứng kinh tế có hiệu quả thì thiết nghĩ sẽ
không có quá nhiều khó khăn về vốn để hoạt động.
Kế đến, về vấn đề nhân sự.
Nhân sự mà chúng tôi đề cập ở đây không nhất thiết là tu sĩ Phật
giáo mà có thể là hàng cư sĩ hoặc bất cứ ai có tâm huyết với đạo
thì đều có thể đứng ra đảm đương, gánh vác. Tuy nhiên, điều cần nói
đến ở đây, đó là khả năng chuyên môn trong lãnh vực kinh tế như trình
độ tổ chức, quản lý và có một tầm nhìn toàn cục trong hoạt động
kinh doanh. Một cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ hoạt động không có hiệu
quả nếu như người chịu trách nhiệm về nó không có một khả năng sắp
xếp, tổ chức, lãnh đạo guồng máy của cơ sở ấy, không biết tính
toán "đầu vào" và "đầu ra" của sản phẩm, không nhận
định chính xác các qui luật về kinh tế, nhu cầu về thị trường….sẽ
dẫn đến sự thất bại trong nay mai. Cho nên vấn đề nhân lực lãnh đạo,
tổ chức và quản lý trong hoạt động kinh tế là một yếu tố cực kỳ
quan trọng. Đã có nhiều cơ sở kinh tế của Phật giáo làm ăn thất bại
do chưa coi trọng yếu tố này. Đây cũng là một vấn đề liên quan đến
định hướng đào tạo nguồn nhân lực mà giáo hội cũng cần phải quan tâm.
Nếu như trước mắt chưa đào tạo được đội ngũ này thì nên chăng, chúng
ta mời những cá nhân có đủ khả năng chuyên môn và trình độ, kinh nghiệm
trong hoạt động kinh tế cộng tác với tính chất là cố vấn hoặc là trực
tiếp chỉ đạo. Đây là thời đại của chuyên môn, không ai có thể tự
hào rằng mình am tường tất cả mọi lãnh vực cho nên việc chấp nhận một
chuyên viên kinh tế trong guồng máy hoạt động kinh tế của Phật giáo là
điều dễ dàng được nhấp nhận.
Một điều cần phải lưu ý đó
là thái độ tinh thần, đời sống đạo đức của những con người khi
tham gia hoạt động này. Bởi lẽ, đây là một giải pháp, một cách thức
đòi hỏi người tham gia phải hội đủ phẩm chất đạo đức đủ nhất
định mới có thể đảm đương công việc này. Vì như đã nói, khi tiếp
cận với lợi nhuận, với tiền bạc thì con người rất dễ bị lung lạc,
tha hóa. Đây cũng là bài học cho các Ban quản trị của các Xí nghiệp,
Công ty. Cho nên, trước khi chấp nhận gánh vác những hoạt động này, những
người chịu trách nhiệm trực tiếp cần được khảo xét về mặt đạo
đức, đời sống cá nhân và thậm chí xu thế tâm linh của họ.
Mục tiêu lớn nhất mà giáo lý Phật
đà nhắm đến là cố gắng làm vơi nổi khổ cho đời sống nhân sinh, muốn
thực hiện mục tiêu ấy không nhất thiết phải đi cùng một con đường.
Tham gia hoạt động kinh tế là một trong những giải pháp không nằm ngoài
tôn chỉ mà từ lâu đức Phật đã chỉ dạy. Vì lẽ, khi làm kinh tế, tức
là hoạt động tích lũy để làm giàu, và cũng cần nói thêm là làm giàu
theo lý thuyết Chánh nghiệp của Phật giáo sẽ gắn kết với sự không
bóc lột, hay chiến đoạt của cải người khác. Ở đây, làm giàu chánh
đáng, tích lũy của cải một cách lương thiện là một phương thức giải
quyết phần nào những khó khăn, vướng bận của đời sống.
Như vậy, vấn đề then chốt để
cho cỗ máy của một tổ chức vận hành đó là đời sống kinh tế; Giáo
Hội Phật Giáo Việt nam cũng là một tổ chức cho nên sự khẳng định
năng lực về kinh tế là một yếu tố rất quan trọng. Để hoạt động
kinh tế có hiệu quả thì yêu cầu trước hết là phải xác định một mục
tiêu mang tính chiến lược và một phương thức hoạt động hợp với xu
thế thời đại. Tất nhiên, chúng ta không có tham vọng là tự chủ hoàn
toàn về đời sống kinh tế nhưng ít nhất phải chứng tỏ sự nổ lực của
chính mình qua những việc làm cụ thể như đã nêu. Một khi điều kiện hội
đủ và hoạt động kinh tế của Phật giáo gặt hái những thành tựu khả
quan, chúng ta tin chắc rằng sẽ có những đóng góp rất thiết thực không
những trong phạm vi nhu cầu hoạt động, đào tạo, tổ chức của giáo hội
mà còn mở rộng tầm ảnh hưởng trên nhiều phương diện, gần gũi nhất
là có thể góp phần nâng cao chất lượng sống của mọi thành viên trong
xã hội hiện nay.
http://www.buddhismtoday.com/viet/kinhte/kinhte.htm