Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Cầu Nguyện và Thờ Phụng 
Tiến sĩ G.P. Malalarekera

 

Người ta thường thắc mắc: Liệu người Phật tử có cầu nguyện hay không ? Người Phật tử làm gì khi họ đến chùa ? Và thái độ của người Phật tử đối với việc cầu nguyện như thế nào ?

Trong thực tế, cầu nguyện và sùng bái hình thành nên một phần không thể thiếu được của nhiều tôn giáo. Trong Phật giáo, thuật ngữ "cầu nguyện" có rất nhiều ý nghĩa. Trong các Tôn giáo hữu thần những tôn giáo tin vào một đấng Thượng đế toàn quyền năng, người sáng tạo ra vũ trụ, và là cha đẻ của các loại sinh vật, cầu nguyện chính là lời khẩn khoản, năn nỉ đấng Thượng đế, cầu xin Ngài, chỉ cầu Ngài hướng dẫn và bảo vệ, che chở; cầu xin Ngài ban cho sức khỏe và hạnh phúc, và thậm chí tha cho những lỗi lầm đã phạm phải.

Ngay từ đầu, bởi vì người Phật tử không tin vào một đấng Thượng đế như thế, cho nên họ cũng không cầu nguyện theo ý nghĩa đó. Người Phật tử tin vào luật nghiệp báo. Chính luật nhân quả, nghiệp báo cho chúng ta biết rằng hạnh phúc hay bất hạnh đều do kết quả tạo tác của chúng ta. Những thuận duyên hay nghịch cảnh được sản sinh từ mỗi cá nhân do những hành động của thân, khẩu, ý của anh ta. Luật nhân quả không khách quan và không liên quan đến riêng ai; nó không có một tác nhân dằng sau nó để điều khiển hướng dẫn và quản lý nó. Bởi vì không khách quan, nó không chứng tỏ sự ban ơn hay sự tha tội. Aùc nghiệp chỉ có thể được bù đắp bằng cách làm các thiện nghiệp, và các thiện nghiệp này sẽ vượt qua những ác nghiệp. Tội lỗi , theo ý nghĩa của Phật giáo, không phải là sự vi phạm hay là không tuân theo những quy luật được một đấng Thượng đế đặt ra một cách chuyên quyền đôïc đoán, bắt con người phải tuân theo. Nhưng những hành động sai trái, bất thiện của thân, khẩu, ý làm nhiễm ô nhân cách của con người và ngăn chặn sự tiến bộ nhân tính của con người.

Do đó, trong Phật giáo không có sự cầu nguyện theo như một thuật ngữ được chấp nhận một cách thông thường. Nhân loại phải chịu trách nhiệm cho chính bản thân mình cho những thiện nghiệp và ác nghiệp, hạnh phúc và khổ đau, chứ không phải ai khác. Thế ggian không tùy thuộc vào sự tiến bộ của một tác nhân bên ngoài nào và nó không được kiến thiết bởi một ai ở ngoài thế gian.

Người Phật tử làm gì khi họ đến chùa ? Họ làm rất nhiều điều. Đối với người Phật tử, thông thường họ đi chùa vào những ngày đầu tháng và rằm. Vào những ngày này, các Phật tử có thể phát tâm thọ Bát quan trai giới. Khi đến chùa vào những ngày này, người Phật tử thường mang theo hương hoa, dầu, thỉnh thoảng nến cúng dường. Khi vào chùa, họ gột rửa tay chân sạch sẽ trước nhi vào điện Phật, để lễ Phật và cúng dường. Trong chùa có nhiều nơi để lễ bái và cúng dường. Nơi điện chính được gọi là Vihara có nghĩa là một trú xứ.

Từ Vihara vốn nghĩa là nơi Đức Phật trú,sau này nó được dùng để cho trú xứ của các Tỳ kheo . Theo ý nghĩa này, thì từ Vihara tương đương với từ "Tu viện" ngày nay. Một trú xứ hay tu viện cũng bao gồm nhiều hình tượng của Đức Phật, và ở nơi đó có nhiều điều đáng được chú ý. Đối với người Phật tử, bản thân hình tượng không phải là mục tiêu của việc sùng bái, nó là một biểu tượng và tượng trưng cho Đức Phật. Hình ảnh sẽ giúp cho họ hồi tưởng lại những đức tính vĩ đại của bậc giác ngộ. Vì mục đích của sự sùng bái, cho dù có một hình tượng hay không, anh ta có thểû cảm thấy hữu ích cho việc định tâm. Khi sùng bái một hình tượng, người Phật tử không phải là người sùng bái cầu nguyện một đấng thiêng liêng được làm bằng gỗ, thạch cao hay đồng đá... Và sự buộc tội cho rằng người Phật tửlà những người sùng bái thần tượng, là một sự vô minh và một sự lý giải có chủ tâm.

Có một điểm đáng để lưu ý trong việc sử dung danh từ Víhara ( tu viện) cho những nơi có sự hiện diện của tượng Phật. Như đã nói đến ở phần trước, từ Vihara có nghĩa là một trú xứ; do đó, đối với người Phật tử, Vihara là một nơi mà Đức Phật sống, không những trong qúa khứ mà còn ngay bây giờ trong hiện tại. Sự sùng bái Đức Phật không phải là sự sùng bái một người đã tịch diệt không còn nữa, nhưng là một con người đang sống và hiện hữu trước mặt anh ta. Điều này không có nghĩa là giới Phật tử tin rằng: Đức Phật đã tịch diệt tại Kusunara , đang sống tại ngay trong giờ phút hiện tại ở một nơi nào đó để tiêp tục cuộc sống của mình, sự hiện hữu sống lại hình ảnh của bậc đạo sư để mà hành động, cầu nguyện của anh ta dược sống động và có ý nghĩa.

Đức Phật tuy đã nhập niết bàn, nhưng hình ảnh của Ngài vẫn tiếp tục lan tỏa khắp thế gian giống như mùi nước hoa có mùi thơm dễ chịu tiếp tục phảng phất dù là chất của nó không còn nữa. Cái cảm giác của người Phật tử rằng là sự cúng dường cho những vị nào vẫn còn hiện hữu, thì trong Phật pháp đó cũng còn hiện hữu. Điều này lý giải tại sao chính người Phật tử cúng dường thức ăn và nước uống tại các điện thờ Phật. Những sự cúng dường như thế chỉ là hình thức tượng trưng sức sống của niềm tin và của sự thuần thành; không ai tin rằng Đức Phật thực sự dự những bữa ăn như thế. Đó chính là cánh biểu hiện lý tưởng khái niệm về Đức Phật như là một sự ảnh hưởng sống lại trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Việc cúng dường hương hoa là một sự ban cho cuả việc sùng bái , một hành động thành kính và ngưỡng mộ, và bày tỏ sự biết ơn mặc dù chính bản thân sự cúng dường không có một giá trị thực chất nào . Cũng giống như chúng ta tặng cho ai một lẵng hoa, hay một bó hoa để bày tỏ sự ngưỡng mộ, tôn kính, sự đam mê và lòng bết ơn. Đằng sau những việc dâng lên Đức Phật hương và hoa là lời tán tụng dâng lên Ngài để hồi tưởng lại trong tâm của người Phật tử những phẩm chất cao thượng,vi diệu của Đức Phật. Như Ngài Nanamoli đã tán dương Đức Phật như sau: " Đức Phật chính là một vị giác ngộ, người đã chấm dứt buồn rầu và đau khổ, một đấng hoàn hảo, đáng được đảnh lễ, đã chứng được trí tuệ và giác ngộ vô thượng. Ngài chính là người tuyên thuyết con đường đưa đến chánh kiến và chánh mạng, đã tìm được an lạc, hạnh phúc, đã chứng được chân lý của cuộc đời. Và Ngài là một người hướng dẫn và ngừơi bạn vô song với những ai cần sự hướng dẫn ở nơi Ngài. Người là một bậc đạo sư của trời và người."

Chúng ta cũng nên chú ý rằng không có sự đòi hỏi để được ban cho đặc ân, không có một sự yêu cầu tha thiết để được che chở, nhưng đối với người phật tử đây là sự hồi tưởng và nghe lại những đức tính của một bậc vĩ đại nhân đã từng hiện hữu ở nơi đời. Theo một số bài kệ khác qua đó tín đồ Phật giáo cho là anh ta chấp nhận Đức Phật như một bậc Đạo sư, người hướng dẫn tâm linh trong suốt cuộc hành trình sinh mạng của anh ta và chính nhờ vào giới hạnh này mà anh ta có thể đạt được của một cuộc sống an lạc, hạnh phúc. Đó là một lời xác quyết niềm tin của anh ta ở nơi Đức Phật và là sự chấp nhận một lối sống mà anh ta đã chọn. Thậm chí quan trọng hơn nữa là chính anh ta phải phát lời thệ nguyện nỗ lực tinh tấn, tu tập để đạt được an lạc của cảnh giới Niết bàn mà Đức Phật đã chứng đắc thông qua việc hành trì giới hạnh và chứng đắc tuệ giác. Người Phật tử luôn nhắc nhở tâm mình rằng trong một chuỗi sanh tử từ vô lượng kiếp, Đức Phật (lúc còn làm Bồ Tát hoặc một A La Hán để hoàn tất sự chứng ngộ hoàn toàn) đã tu tập những phẩm hạnh nầy nhằm đưa chúng sanh tiến đến sự giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trong suốt cuộc hành trình tu tập, Bồ Tát hay Đức Phật tương lai đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, đã dâng hiến, hy sinh quá nhiều . Không chỉ trong một kiếp mà còn trong vô lượng kiếp, Ngài đã dâng hiến hy sinh mạng sống của mình cho nguyên lý, giáo pháp nhằm phục vụ quần sanh. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Ptật tánh ,tức là tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, nếu họ phát những lời thệ nguyện cần thiết và sẵn sàng thực hành con đường đưa đến Phật quả. Đức Phật không chứng đăc những điều gì vĩ đại, lớn lao mà những người khác không thể chứng đắc. Triết lý sống , phương cách sống do Đức Phật tuyên bố được gọi là Dhamma – chân lý, pháp và người Phật tử hồi tưởng lại trong tâm mình bằng những bài kệ tụng, những phẩm chất đức hạnh và những đặc trưng nổi bật về lời dạy của Ngài. Do vậy Phật pháp được gọi là “pháp được tuyên thuyết rõ ràng không có sự hủền bí hoặc mật truyền bí ẩn đằng sau nó” . “Đó là một lời công khai rộng mở, tính hiệu quả của nó thì rõ ràng rành mạch, hiển nhiên và có thể chứng minh được; nó là vĩnh hằng và không có giới hạn, nó luôn đúng và có giá trị trong mọi thời đại, mọi không gian, luôn mời gọi chúng ta đến để mà thẩydê tìm hiểu và xác chứng. Pháp này không có gì để che dấu cả; pháp này không chỉ căn cứ vào niềm tin mà còn căn cứ vào niềm tin vững chắc, có cơ sở nền tảng. Mục đích của nó không phải là mập mờ, mơ hồ mà là rất rõ ràng. Nó là chân lý và hạnh phúc có thể đạt được bởi các cá nhân bằng các nỗ lực tích cực chứ không dựa vào tha nhân cho dù tha nhân có sức mạnh và quyền năng đến đâu đi nữa.”

Giới Phật tử cũng hồi tưởng trong tâm để khích lệ và mở mang trí tuệ raằng luôn có những người hiến cả cuộc đời mình cho sự giác ngộ vô thượng, con đường đưa đến sự giải thoát, và sự nỗ lực tích cực đã đạt dược mục tiêu của sự tầm cầu của họ – đó là sự đoạn trừ tham, sân , si. Như thế, họ là những con người mẫu mực sống một cuộc đời cao thượng, tốt đẹp, có phẩm hạnh, chánh trực, không bị chê trách ở nơi cử chỉ, hành động,đáng được tôn kính và tán dương, xứng đáng để cho đời học hỏi và noi theo. “Những bậc thánh nhân này là những bậc Tăng đoàn (Sangha) hay cộng đồng những vị đệ tử đã giác ngộ, người đã rửa sạch thế gian này bằng thiện nghiệp và sự thánh thiện cao cả trong cuộc sống của họ – tránh làm điều ác và cố gắng làm các hạnh lành và làm thăng hoa vũ trụ này bằng tư tưởng thiện chí, thân thiện và hài hòa. Người Phật tử khi bố thí cúng dường phẩm vật cho Tăng già là đang hành hạnh bố thí. Để ghi nhớ công hạnh của những bậc bố thí này, người Phật tử thực hành giới, và làm thăng hoa tâm mình bằng những tư tưởng cao quý và anh ta bắt đầu sự tu tập ở một cấp độ cao hơn- thiền định, sự tu tập tâm. 

http://www.buddhismtoday.com/viet/nghithuc/008-thophuongvacaunguyen.htm

 


Cập nhật: 1-9-2001

Trở về thư mục "Nghi thức và Nghi lễ Phật giáo"

Đầu trang