Trang tiếng Anh | Đạo Phật Ngày Nay |
...... ... | . | . | . | . | . |
Vì đạo Phật có 2 hai nhánh chính là Phật giáo nguyên thủy và đại thừa nên tuyển tập kinh thánh Phật giáo nên chứa đựng cả 2 nguồn kinh điển tiêu biểu của hai tông phái chính. Trên tinh thần đó, nên có 2 tuyển tập kinh thánh Phật giáo: một tuyển tập của kinh điển hệ Pali nguyên thủy và một tuyển tập của hệ Sanskrit đại thừa. Đối với tuyển tập kinh thánh nguyên thủy 1. Tạng giới luật nên được tỉnh lược tối đa. Chỉ nên giữ lại phần cốt lỏi Đại Phẩm (Mahavagga) và Tiểu Phẩm (Cullavagga). Các phần còn lại của tạng Luật không nên giới thiệu trong tuyển tập kinh thánh . Bởi lẽ các phần đó liên hệ thuần túy đến các điều khoảng, cách trị phạt, hệ thống tổ chức đời sống cộng đồng của người xuất gia; không có lợi ích nhiều cho người Phật tử tại gia. Kế giới giáo pháp của Phật không được chứa tải nhiều trong các phần giới luật này. 2. Không kèm tạng Luận trong tuyển tập kinh thánh . Bởi lẽ, ngôn ngữ của tạng Luận tuy sâu sắc nhưng khó hiểu với cách lý luận, mang phong cách phân tích nặng về triết học ngôn ngữ, nên không cần thiết cho giới Phật tử bình dân. Do đó không cần thiết giới thiệu vào trong bộ kinh thánh Phật giáo. 3. Chỉ tuyển chọn các kinh quan trọng trong 4 bộ Nikaya đầu bao gồm tuyển tập các bài kinh dài (Trường Bộ kinh), tuyển tập các bài kinh trung bình (Trung bộ kinh), tuyển tập các bài kinh theo chủ đề (Tương ưng bộ kinh) và tuyển tập các bài kinh theo pháp số (tăng chi bộ kinh). 4. Về 15 tuyển tập thuộc Tiểu bộ kinh, chỉ nên tuyển chọn các phần tinh hoa trong 5 bộ đầu. Riêng kinh Pháp Cú thì nên giữ nguyên toàn bộ 423 bài kệ, vì tính cô đọng và bao quát giáo pháp Phật của nó. Mười bộ từ thứ sáu trở đi nên được tỉnh lược. Như vậy với cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Nguyên thủy sẽ chiếm khoảng 1000 trang giấy, rất tiện lợi cho việc mang đi đây đó, thọ trì, đọc tụng và phổ biến. Đối với tuyển tập kinh thánh đại thừa 1. Về giới Bồ-tát, chỉ giới thiệu phần nội dung của 10 giới nặng và 48 giới nhẹ. Tỉnh lược toàn bộ phần dẫn nhập về nhân địa bồ-tát. 2. Toàn bộ phần Mật tạng và luận tạng nên được tỉnh lược, vì quá nhiều và không cần thiết cho đại đa số quần chúng. 3. Đối với các kinh điển đại thừa, cũng nên chọn lọc các kinh tiêu biểu mà thôi. Các kinh đại thừa nên được giới thiệu là: kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Lăng Già, kinh Viên Giác, kinh Pháp Hoa, Kinh Duy-ma-cật sở thuyết, kinh Đại Bảo Tích, kinh Bát-nhã, Kinh báo ân cha mẹ, Kinh Vu-lan. Riêng kinh Năng Đoạn Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật thì giữ trọn vẹn. Không nên giới thiệu các kinh Dược Sư, Địa Tạng và các kinh thần chú, vì tính chất van xin và cầu nguyện trong các kinh này đã đi ngược lại với tinh thần lời dạy nguyên thủy của đức Phật. 4. Đối với các kinh đại thừa vừa nêu trên, cũng nên tuyển chọn các phẩm kinh tiêu biểu chứ không cần giới thiệu toàn bộ các phẩm trong kinh. Với cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Đại thừa sẽ chiếm khoảng 1000 đến 1500 trang giấy. Như vậy cả hai bộ kinh thánh Phật giáo nguyên thủy và đại thừa gộp lại sẽ chiếm khoảng 2000-2500 trang giấy. Nếu in trên giấy mỏng và tốt thì bộ kinh thánh chỉ cần chứa trong 2 tập, tập 1 là kinh thánh nguyên thủy và tập 2 là kinh thánh đại thừa. Tuy nhiên cách phân bổ số tập cũng có thể linh động, bằng cách chia đều mỗi tập 500 trang. Như vậy có tất cả là 5 tập, tập 1 và 2 thuộc kinh thánh nguyên thủy và 3 tập còn lại thuộc kinh thánh đại thừa. Nếu tính luôn bản nguyên tác Pali và Sanskrit thì số lượng tập của bộ kinh thánh Phật giáo có thể tăng lên gấp đôi. IV. Phương cách trình bày bộ kinh thánh Phật giáo 1. Cả hai tuyển tập kinh thánh nên được trình bày theo một trật tự từ thấp đến cao, từ nhân thừa đến Phật thừa. Không nên trình bày theo cấu trúc truyền thống là kinh luật luận, vì hai kho tàng luật luận đã được tỉnh lược khỏi tuyển tập kinh thánh này. 2. Nên đặt lại tựa đề của các bài kinh (trong trường hợp kinh điển Pali), các phẩm kinh (trong trường hợp kinh điển đại thừa), theo nội dung và chủ để của chúng. Tuy nhiên phải ghi chú tên nguyên gốc để giúp người đọc có thể đối chiếu khi cần thiết. 3. Đánh số thứ tự lại trật tự của các bài kinh, số đoạn một cách có hệ thống để tiện cho việc tham khảo dọc. Số thứ tự được đánh theo từng bài kinh. Sang bài kinh khác thì số thứ tự được đánh lại từ đầu. Ví dụ đoạn thứ nhất của bài kinh thứ nhất được đánh số là 1: 1. Đoạn thứ ba của bài kinh thứ nhất được đánh số là 1: 3. Nếu chi tiết hơn, chúng ta có thể đánh dấu số trang cho chúng. Ví dụ nếu đoạn một của kinh thứ nhất đó nằm ở trang 3 thì ta ghi như sau: 1: 1 : 3. Tương tự nếu là đoạn thứ 3 của kinh thứ 2 thuộc trang 8 thì ta ghi như sau: 2 : 3 : 8. 4. Nên đặt chủ đề cho từng ý tưởng chính trong kinh. Các chủ đề chính được đánh dấu bằng một co chữ in lớn (ví dụ co 13) trong khi các ý tưởng nhỏ hay trực thuộc nên được đánh dấu bằng một co chữ in nhỏ hơn (ví dụ 11). Việc đặt chủ đề như trên sẽ giúp cho người đọc có được manh mối để ghi nhớ và suy tư lời Phật dạy trong khi tụng niệm. 5. Đối với các kinh nguyên thủy, nên tỉnh lược các đoạn trùng lập (vốn chỉ có giá trị trong truyền thống truyền miệng) bằng các ký hiệu mặc ước (ví dụ […]) để ý tứ của mạch văn được cô đọng và rõ ràng hơn. Ngoài ra, việc tỉnh lược này còn giúp tiết kiệm giấy mực hay nói khác hơn giảm bớt kinh phí ấn loát và phát hành. 6. Viết lại một cách ngắn gọn, cô đọng, đầy đủ nghĩa các đoạn mở đầu các bài kinh thành 1 hoặc 2 dòng, thay vì nửa trang giấy như nguyên tác. Miễn sao việc tỉnh lược đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến nội dung chính của kinh là được. Tuy nhiên cũng nên có các ký hiệu cho biết đây là đoạn đã được biên tập ngắn lại. V. Phương pháp tổ chức biên soạn bộ kinh thánh PG 1. Để bộ kinh thánh Phật giáo được sử dụng thống nhất trên khắp thế giới, ngôn ngữ của kinh thánh này phải được thể hiện qua ba thứ tiếng căn bản là Pali, Sanskrit và tiếng Anh. Nói cách khác công việc biên tập trước nhất phải được tiến hành theo ngôn ngữ gốc của kinh điển. Đối với tuyển tập kinh thánh nguyên thủy, trước nhất phải được biên tập từ tiếng Pali. Đối với tuyển tập kinh thánh đại thừa, việc biên tập được thực hiện từ tiếng Sanskrit. Khi ấn bản la-tinh hóa của hai tuyển tập kinh thánh này hoàn tất, chúng ta tiến hành đến việc phiên dịch ra bản tiêu chuẩn tiếng Anh. Các nước Phật giáo trên khắp thế giới có thể tham khảo bản tiếng Anh trong khi phiên dịch hai ấn bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ của mình. Nói dễ hiểu hơn, phần kinh thánh nguyên thủy được trình bày qua tiếng Pali đã la-tinh hóa, trong khi phần kinh thánh đại thừa được trình bày qua tiếng Sanskrit, như chính nguyên tác ngôn ngữ của chúng. Ấn bản tiếng Anh đính kèm là bản tham khảo đối chiếu cho các bản dịch ra tiếng mẹ đẻ của các dân tộc trên thế giới. Riêng chúng ta là người Việt Nam, thì bộ kinh thánh Phật giáo bao gồm 2 ấn bản, ấn bản nguyên gốc Pali và Sanskrit và ấn bản tiếng Việt. Ấn bản nguyên gốc để nhằm vào mục đích tra cứu, tham khảo nguyên tác. Ấn bản tiếng Việt là ấn bản chính mà các chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường và các gia đình Phật tử cần phải có ít nhất một bộ trong chùa hay trong nhà mình. Về lâu về dài, mỗi người con Phật dù tại gia hay xuất gia đều có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo đó. 2. Để thực hiện công việc biên tập trên, phải thành lập một ban biên tập gồm các vị cao tăng, danh tăng, cư sĩ có tâm huyết với Phật pháp và các học giả Phật giáo trên khắp thế giới. Thành viên của Ban biên tập này phải là những người đại diện cho tiếng nói của Phật giáo trong một nước. Do đó các thành viên phải là người được đề cử của giáo hội Phật giáo trong một nước hay của một tổ chức Phật giáo nào đó hay của các trường đại học Phật giáo nổi tiếng trên thế giới. 3. Trước nhất, số lượng bài kinh cũng như các kinh của hai truyền thống được tuyển chọn vào bộ kinh thánh Phật giáo phải được thảo luận rộng rãi. Các ý kiến đóng góp của quần chúng tăng ni Phật tử trên khắp thế giới phải được tham khảo và nghiên cứu kỷ lưỡng, để hoàn thiện nội dung của bộ kinh thánh Phật giáo. Sau khi thống nhất về các bài kinh được tuyển chọn, ban biên tập tiến hành công tác biên tập, theo các tiêu chí nêu ở mục IV. 4. Một khi văn bản nguyên tác Pali và Sanskrit đã được biên tập và hệ thống hóa, bản dịch tiếng Anh cần được tiến hành tiếp theo sau. Sau đó, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, để các ban biên tập và phiên dịch địa phương trong một nước nào đó tiến hành dịch ra tiếng mẹ đẻ của mình, chẳng hạn như tiếng Trung Quốc, Pháp, Đức, Nhật, Liên Xô, Miến Điện, Thái, Tích Lan v.v… 5. Văn phong của các bản dịch kinh thánh Phật giáo phải là một loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ của từng dân tộc và quốc gia. Phong cách ngôn ngữ dịch thuật tuy có nhiều loại tùy theo trình độ, sở thích và phong cách riêng của người dịch, có thể chia thành 2 dạng chính: dạng ngôn ngữ tự giải thích và dạng ngôn ngữ tự điển. Dạng thứ nhất là phong cách chuyển ngữ văn bản kinh điển gốc sang tiếng được chuyển ngữ theo một văn phong thuần chất của người bản địa. Nghĩa là tự bản thân các từ ngữ thuật ngữ được diễn tả đã mang tính giải thích rõ ràng. Người đọc kinh điển không cần phải tra cứu các bộ tự điển Phật học để tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Trái lại, dạng thứ hai là dạng sử dụng quá nhiều từ ngữ, thuật ngữ chuyên ngành Phật học, hoàn toàn xa lạ với quần chúng. Đây là loại văn dịch theo phong cách kinh viện, phải cần đến tự điển mới hiểu được ý nghĩa chứa đựng trong nó. Văn phong của bản dịch của kinh thánh Phật giáo phải là loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ, để giúp cho người Phật tử đọc hiểu dễ dàng và ứng dụng không trở ngại. Rõ ràng để có một văn phong như vậy, ban biên dịch của từng nước trên thế giới phải cần đến sự nhuận văn của các văn gia và thi sĩ lỗi lạc trong mỗi nước, trước khi bản dịch được đem đi in ấn. 6. Bản dịch từ bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ (hay tiếng địa phương) phải được các hội đồng đại diện của một nước phụ trách. Hội đồng đó có thể bao gồm các tu sĩ, cư sĩ và học giả Phật lỗi lạc và tinh thông Phật pháp trong một nước. 7. Để bộ kinh thánh Phật giáo này có trong tay từng tu viện và gia đình Phật tử, Ban biên tập có thể vận động các tổ chức từ thiện Phật giáo trên khắp thế giới ủng hộ phần kinh phí ấn tống bộ kinh thánh Phật giáo. Ngoài ra, các đại diện của một nước cũng nên vận động ấn tống hay phát hành bộ kinh thánh Phật giáo trên tinh thần không lời không lỗ, để bạn đọc Phật giáo có thể mua dễ dàng. Giá ấn bản, nếu không phải ấn tống, nên bằng với giá chi phí ấn loát thực tế. Có như vậy thì mỗi tăng ni và gia đình Phật tử đều có thể có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo để đọc tụng và thực hành lời Phật dạy ở mỗi nơi và mọi lúc. VI. Thay lời kết Những điều được trình bày bên trên chỉ là nguyện vọng của cá nhân chúng tôi trong việc mong mỏi có một bộ kinh thánh Phật giáo thống nhất trên khắp thế giới. Nguyện vọng tuy chánh đáng nhưng việc thực hiện không phải là chuyện dễ dàng. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng công việc cần thiết này không phải không thực hiện được. Chúng tôi mong sao các nhà lãnh đạo Phật giáo, các nhân văn trí thức Phật giáo trên khắp thế giới lưu tâm nhiều hơn về vấn đề này, để sớm có ngày ngồi lại bên nhau phát thảo công trình biên tập một bộ kinh thánh Phật giáo trong vòng 2500 trang. Những điểm cần thảo luận chi tiết cho công trình này là:
Được như vậy, người viết tin chắc rằng lời Phật dạy sẽ được nhiều người biết đến, sự ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống sẽ có nhiều lợi ích hơn, và do đó, cuộc sống con người hôm nay và mai sau sẽ an lạc và hạnh phúc hơn trong ánh sáng chánh pháp của đức Phật. http://www.buddhismtoday.com/viet/nghithuc/viethoa-1-tnt-thanhkinhPG.htm |
Cập nhật: 1-8-2000 | Đầu trang |