Trừ một số kinh dành riêng cho trong chùa tụng, những Kinh
Cư Sĩ thường tụng có ý nghĩa sau:
1) Kinh A-di-đà
Kinh này Phật giảng cho tôn giả Xá Lợi Phất và những vị
khác tại nước Xá Vệ, nơi vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Phật ca ngợi cảnh
Tây Phương do Đức Phật A-di-đà làm giáo chủ, ai muốn sanh về cõi nước
này thì nên phát nguyện, khi đã sanh về cõi này rồi thì không còn thối
chuyển, người nào được sanh về cõi này, thấy mình ở trong hoa sen nở
ra, mình ngồi ở trong hoa sen đó. Nếu có ai niệm danh hiệu Đức A-di-đà
tu 1 đến 7 ngày, tâm không bị lọan động, khi chết sẽ có Phật A-di-đà,
Đức Quán Thế Âm, Đức Đại Thế Chí hiện ra cho thấy, nếu trong lúc chết
mà tâm không tán loạn thì được sanh về cõi Phật A-di-đà, nơi đây hết
sức sung sướng nên còn có tên là cõi Cực Lạc, vỉ khi chưa thành Phật,
Đức A-di-đà có 48 lời nguyện, khi nào Ngài thành Phật, cõi đó phải
được như ngài nguyện vậy.
Pháp môn Tịnh Độ chỉ niệm Nam Mô A-di-đà Phật khi đi,
đứng, nằm, ngồi để cầu sau khi chết, được sanh về cõi cực lạc.
Khi tụng Kinh cho người chết, để cầu cho người chết được sinh lên
cõi cao hơn, gọi là cầu siêu, tức là cầu cho sanh về cõi Cực Lạc và cũng
để nhắc nhở lời Phật dạy cho những người khác, muốn sanh về cõi cực
lạc phải niệm sáu chữ: " Nam-mô A-di-đà Phật !".
2) Kinh Phổ Môn
Đây chỉ là phẩm thứ 25, một trong 28 phẩm của Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Phẩm này do Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật về Bồ Tát Quán
Thế Âm, Phật chỉ rõ Ngài là vị Bồ Tát hay quán sát thế gian, nghe ai
kêu cầu, Ngài liền đến cứu giúp, ban cho sự không sợ hãi, Ngài hiện
ra khắp nơi, biến hiện thành ra như mọi người để tùy trường hợp mà
cứu giúp. Ai muốn nhờ đến sự cứu giúp của Ngài thì hãy niệm danh hiệu
của Ngài như :" Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát" hay "Nam Mô Đại
Từ Đại Bi Linh cảm cứu khổ, cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát."
Gặp những khi hoạn nạn, bệnh tật người ta thường hay
tụng kinh Phổ Môn để cầu Đức Quán Thế Âm cứu giúp cho được an lành,
tai qua nạn khỏi nên gọi là Cầu An.
3) Hồng danh sám hối
Kinh này có niệm đến 89 vị Phật, sám hối tất cả những
tội lỗi trong nhiều đời nhiều kiếp, những tội do mình làm, bảo người
khác làm, hay vui vẻ khi thấy người làm đều sám hối, những công đức
lành đều hồi hướng về ngôi vị chánh đẳng chánh giác.
Kinh này người ta thường tụng vào những đêm 14 rạng Rằm
hay đêm 30 rạng mồng một, cứ mỗi danh hiệu Phật là lạy một lạy, nhờ
tụng kinh này thường xuyên, người ta sẽ bớt bao tội lỗi.
4) Kinh Kim Cang
Kinh này vốn từ Kinh Đại Bát Nhã, Phật giảng trong 22 năm,
tại 4 chỗ, gồm 16 hội, chép thành 600 quyển. Tóm tắt kinh Đại Bát Nhã
là Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật gọi tắt là Kinh Kim Cang, rút lại thành một
bài là MA HA BÁT NHÃ BA LA MÂT ĐA TÂM KINH cũng gọi là Bổ Khuyết Chân
Kinh, chỉ còn 260 chữ.
Trong Kinh Kim Cang Ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật, nếu có người
muốn đạt quả chánh đẳng, chánh giác thì phải làm sao để: - Hàng phục
vọng tâm và làm sao để an trụ chơn tâm ? và lời Phật dạy có thể tóm
tắt trong câu : Đừng khởi vọng tâm trụ chấp nơi nào cả. Phật dạy
không nên chấp bất cứ thứ gì là thực có, ngay cả:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai.
và cuối kinh Phật dạy, nên xem các thứ trên đời như thế
này:
Nhứt thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tắc như thị quán.
Chúng tôi tạm dịch:
Phải quán làm sao được thế này,
Bao gồm vạn vật ở trần ai,
Tuồng như mộng ảo, như bọt ảnh,
Nhẹ tợ sương và tia chớp trong mây.
Kinh này có sức chấp phá cấp tốc các phiền não, phá chấp
triệt để, nhanh chóng thành bậc chánh giác.
5) Các kinh khác
Ngoài các kinh trên trong kinh Nhật Tụng, có nhiều người tụng
kinh Pháp Hoa, đây là bộ kinh tối thượng thừa giáo hóa hàng Bồ Tát
thành Phật, Phật giảng kinh này trong 8 năm nói rõ đạo Phật chỉ có một
thừa đó là Phật thừa và chư Phật ra đời là để: Mở đường, chỉ lối
cho chúng sanh giác ngộ để nhập vào sự hiểu biết của Phật. Trong kinh
có 5000 vị đệ tử vì cống cao ngã mạn nên rời khỏi pháp hội, những
vị còn lại đều được Phật thọ ký thành Phật sau này.
Phẩm Pháp Sư , Phật dạy rằng sau nầy ai là Pháp Sư, người
truyền bá Giáo lý của Phật phải vào nhà Như Lai, Mặc áo Như Lai, Ngồi
tòa Như Lai nghĩa là phải đầy lòng Từ Bi, hết sức nhẫn nhục, xem tất
cả các pháp đều là KHÔNG.
Còn trong phẩm cuối cùng thứ 28, Phẩm Phổ Hiền Bổ Tát
Khuyến Phát, Đức Phật có dạy, sau khi Ngài diệt độ, nếu ai muốn được
kinh Pháp Hoa thỉ phải đắc 4 pháp:
- Được chư Phật ủng hộ.
- Nơi mình phải nảy sanh căn lành, cội đức.
- Phải có lòng Chánh định chắc quyết.
- Phải thấy mình có quả vị Phật vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh.
Còn kinh Công Phu Khuya hay Chú Lăng Nghiêm, rút từ trong Kinh
Lăng Nghiêm ra, đây là Chú mà Phật đã sai Ngài Văn Thù đem đến cứu Ngài
A Nan, khi Ngài bị nàng Ma Đăng Già dùng thần chú của Ca Tỳ Ca La Tiên Phạm
Thiên làm hại. Kinh này có công năng Định Tâm, thường đọc Kinh này hay
trì Chú thì tai qua nạn khỏi, ma quái không xâm phạm, chư thiên thường hộ
trì, muốn điều chi tốt lành đều được thành tựu. Vì công năng như thế
nên các Chùa thời công phu đều tụng kinh này.
III - Kết luận
Khi tụng kinh, chúng ta cần hiểu kinh nào có công năng ra
sao ? Phật dạy những gì, để tùy trường hợp mà ta tụng kinh, hay nói
khác hơn là hiểu cho được nghĩa của Kinh để tu tập, áp dụng vào đời
sống của người con Phật.