...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Ý nghĩa của cầu
nguyện, cầu an và cầu siêu
Thích
Nhật Từ
thichnhattu@yahoo.com
I. Ý nghĩa của cầu nguyện
II. Cầu nguyện thấp kém và cầu nguyện cao thượng
III. Khái niệm cầu an và cầu siêu
IV. Cầu nguyện và kết quả
V. Cầu nguyện, phát nguyện và hồi hướng
VI. Kết luận
I. Ý
nghĩa của cầu nguyện [^]
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu
xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ
"pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Pràrthanà bắt nguồn từ gốc "pra + arth" có nghĩa là
ước nguyện, ước muốn, mong cầu, cầu xin.
Cầu nguyện, cầu xin hay ước nguyện là một trạng thái
tâm lý mong mỏi một điều gì đó sẽ được thực hiện, sẽ được thành
tựu hay diễn ra theo chủ ý của người mong đợi. Nó phản ánh một thái
độ mong chờ một sự kiện diễn ra theo chủ ý của người có ước mong.
Theo đạo Phật, tùy theo đối tượng và mục tiêu của ước
muốn, cầu nguyện có thể trở thành một trạng thái tâm lý
"tham" tức mong muốn gồm thâu về cho mình, gia đình mình, người
thân mình, hay một trạng thái tâm lý "vị tha" mong cho người khác,
chúng sanh được điều lợi ích, an lạc và hạnh phúc. Nói cách khác, bản
thân của sự cầu nguyện mang tính cách trung tính về phương diện đạo
đức. Tính chất đạo đức của cầu nguyện được xác định tốt hay xấu
tùy thuộc vào mục tiêu của nó cũng như hệ quả của nó diễn ra đối với
đối tượng được mong cầu. Nếu các ước mong của cầu nguyện hướng
về tư lợi, tư hữu, cho cái ta và cái ta sở hữu thì cầu nguyện trong trường
hợp này là một lòng tham, đồng nghĩa với tham ái (patthanà vuccati
ta.nhà, tác phẩm Mahà Nidesa I. 316-37). Nói cách khác, cầu mong những
điều xấu xa cho mục tiêu vị kỷ, tư hữu, thì cầu nguyện sẽ đồng
nghĩa hay mang tính chất của lòng tham (patthana lakkha.no lobho, tác phẩm
Nettippakara.na, tr. 27). Ngược lại các ước mưa hòa gió thuận, nông
dân được mùa, đất nước hòa bình và thế giới hết chiến tranh là
các sự mong cầu "thiện" (kusala) vì tính cách vị tha của mục
tiêu mong ước. Ở đây, sự cầu nguyện hướng đến phúc lợi và hạnh
phúc của người khác, mong điều vui và an lành đến với xã hội loài người,
hoàn toàn không có bóng dáng của lòng vị kỷ, tóm thâu về cho mình. Một
ước nguyện như vậy là ước nguyện chánh đáng và mang tính cách thiện
ích.
II. Cầu nguyện thấp kém và cầu nguyện cao thượng
[^]
Như vừa trình bày, bản chất đạo đức của cầu nguyện
sẽ được phân định tùy theo ý tưởng hay chủ tâm mong ước của người
cầu nguyện. Nếu đối tượng và mục tiêu của mong ước được phân ra
tốt và xấu thì cầu nguyện hay ước nguyện cũng theo đó được phân
thành 2 loại: thấp kém và cao thượng.
Cầu nguyện thấp kém là lòng mong ước những điều bất
chính, những gì có hại cho nhân quần, xã hội, những gì đi ngược lại
lợi ích của số đông. Một ước muốn giết người (dù là kẻ thù), cướp
đoạt tài sản của người khác, chiếm đoạt vợ / chồng người khác, lừa
đảo người khác bằng lời nói v.v… là những ước muốn thấp kém về
đạo đức. Những cầu nguyện cho chiến tranh xảy ra, cho người khác bị
giết chết, bệnh tật, tán gia bại sản, cho những món lợi lộc bất
chánh, phi pháp cho mình, gia đình mình, người thân mình, cộng đồng mình,
xã hội mình và đất nước mình v.v… đều là những thứ cầu nguyện
hay ước muốn trái lại với sự phát triển đạo đức bản thân và cộng
đồng, do đó được xem là các ước muốn hay cầu nguyện thấp hèn. Có
nhiều lời cầu nguyện xấu đã trở thành những lời nguyền rủa, trù
ẻo, thư ếm, để hại người khác. Có lời cầu nguyện phản ánh thái độ
bỏn xẻn, vị kỷ, cá nhân và không tùy hỷ với thành công và hạnh phúc
của người khác. Tất cả những ước nguyện như vậy đều thuộc thấp
kém, và không có giá trị đạo đức.
Cầu nguyện cao thượng, trái lại phát xuất từ tấm lòng
vô ngã, vị tha, từ tình thương không phân biệt giới tính, giai cấp xã hội,
không phân biệt thân sơ, bạn thù, chỉ vì mang lại lợi ích, phúc lợi
và niềm an vui cho người khác v.v… Đó là những cầu nguyện hay ước muốn
thiện và đạo đức. Những ước muốn cho chiến tranh chấm dứt, không
còn cảnh máu đổ, không còn cảnh sát hại con người, động vật và môi
trường; những ước muốn cho hạnh phúc đôi lứa của kẻ khác được lâu
bền, cảnh chia rẻ, phân hóa trở nên đoàn tụ, liên kết nhau; những ước
muốn cho mọi người có công ăn việc làm ổn định, không ai cướp bóc sức
lao động và tài sản của ai, mọi người thương yêu, đùm bọc và giúp
đỡ nhau v.v… là những ước muốn hay cầu nguyện cao thượng, và có giá
trị đạo đức.
Theo lời Phật dạy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ước
muốn hay cầu nguyện thấp kém và cao thượng. Trong bài kinh nói về các hạt
giống tâm thuộc bộ Tăng Chi (A. V. 213) đức Phật đưa ra mười nguyên
nhân sâu xa dẫn đến các ước muốn và cầu nguyện thấp kém. Mười nguyên
nhân đó là: (1) quan niệm sai lầm, (2) tư duy sai lầm, (3) lời nói sai lầm,
(4) hành vi sai lầm, (5) lập nghiệp phi pháp, (6) nỗ lực sai lầm, (7) chú
tâm sai lầm, (8) thiền định sai lầm, (9) kiến thức sai lầm, (10) tự do
sai lầm. Mười nguyên nhân này thực chất có nguồn gốc sâu xa từ quan
niêm sai lầm. Chính "quan điểm" là chủ não của nhận thức và
hành động. Một khi nhận thức sai thì hành động trở nên nguy hại cho đạo
đức và phúc lợi của người khác. Ví dụ khi một người nào đó nhận
thức sai lầm rằng giết người, cướp của, quan hệ tình dục phi pháp,
nói láo để lừa gạt người, uống rượu, hút thuốc và ăn chơi xa xỉ,
là không có hại hay không trái với nguyên tắc đạo đức căn bản của xã
hội loài người, thì chắc chắn rằng người đó không những có những
ước muốn xấu ác, tổn hại tha nhân và xã hội mà còn có thể có các
hành vi bất thiện, để đem về lợi ích vị kỷ cho bản thân mình. Trong
trường hợp này, người cầu nguyện hay có ước nguyện thấp kém sẽ bất
chấp luật pháp, làm những điều bất chính, tổn hại cho đạo đức xã
hội. Do đó, để chặn đứng các cầu nguyện hay ước muốn xấu xa đó,
trước nhất và hơn bao giờ hết, chúng ta nên phát triển quan điểm chân
chánh (sammà-di.t.thi). Nói cách khác quan điểm chân chánh là đầu mối
của tất cả hành vi đạo đức đem lại lợi ích cho bản thân và tha
nhân.
Cũng trong bài kinh trên, đức Phật trình bày 10 nguyên nhân
của ước muốn hay cầu nguyện cao thượng, đó là: (1) quan niệm chân
chánh, (2) tư duy chân chánh, (3) lời nói chân chánh, (4) hành vi chân chánh,
(5) lập nghiệp chân chánh, (6) nỗ lực chân chánh, (7) chú tâm chân chánh,
(8) thiền định chân chánh, (9) kiến thức chân chánh, (10) tự do chân
chánh.
Quan niệm chân chánh được xem là yếu tố dẫn đầu của
chín loại chân chánh còn lại. Theo lời Phật dạy, quan điểm chân chánh
là cái nhìn về con người và sự vật dưới ánh sáng của nguyên lý
duyên khởi hay tương thuộc, không có một nguyên nhân khởi thủy, sanh ra
muôn vật. Quan niệm như vậy đánh đổ hoàn toàn một niềm tin sai lầm về
một đấng tạo dựng, sanh ra sơn hà vũ trụ do đó nắm lấy cán cân thưởng
phạt đạo đức con người. Người có quan niệm chân chánh sẽ làm chủ bản
thân mình, không than trời trách đất về những đau khổ khách quan, vì nhận
thức rõ rằng nguyên nhân của nó là những hành vi tham lam, sân hận, si
mê và tham ái trong hiện đời hay trong quá khứ. Người có quan điểm chân
chánh cũng nhìn thấy được phương diện khác của cuộc đời là trạng
thái hạnh phúc và an lạc do vắng bóng hoàn toàn các khổ đau tâm sinh lý.
Để đạt được an lạc này, không thể cầu xin một đấng thần linh ban
giáng hay mua đổi bằng tiền bạc, danh vọng, chức sắc, trái lại chỉ
có phát triển chín điều chân chánh còn lại (như đã nêu ở trên) mới
giúp cho chúng ta có được an lạc và hạnh phúc thật sự và bền lâu.
Nói tóm lại nếu mười tà là những nguyên nhân, là chất
xúc tác, là chất dẫn đạo, là cội nguồn của những nguyện vọng hay cầu
mong thấp kém thì 10 chân chánh là những nguyên nhân ngược lại, mang lại
kết quả an lạc và hạnh phúc cho mình và người, đời này và đời sau.
Người đệ tử của đức Phật nói riêng, và người mong mỏi tiến bộ
đạo đức nói chung nên phát triển 10 chân chánh để sống an vui trong đời.
III. Khái
niệm cầu an và cầu siêu [^]
Đạo Phật không chú trọng đến ước muốn thuần túy. Đạo
Phật chủ trương hành động thực tiễn. Mặc dù trong đạo Phật có nhiều
bài kinh dạy về cách thế nào để đạt được an lạc và hạnh phúc
trong cuộc sống, cũng như cách tu tập để sanh về thế giới của các đức
Phật, khái niệm "cầu an và cầu siêu" không những không phản
ánh được điều trên mà còn có thể gây hiểu lầm rằng đạo Phật là
đạo của cầu nguyện và van xin, đạo tùy vào tha lực.
Về từ nguyên, khái niệm "cầu an" và "cầu
siêu" mới xuất hiện gần đây trong giới Phật giáo Việt Nam. "Cầu
an" có nghĩa là đen là "cầu cho một người nào đó được khỏe
mạnh và an lạc," trong khi "cầu siêu" có nghĩa là "cầu
cho người chết được siêu độ, được sanh về thế giới của chư Phật."
Như vậy cầu an là sự mong muốn, là ước vọng được khỏe
mạnh, an lạc và hạnh phúc. Nó không giới hạn ở việc cầu cho người bệnh
sớm lành mạnh, tai qua nạn khỏi, như nhiều người đã hiểu lầm. Để
được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm, theo đức Phật
là mỗi người phải tự trau dồi đời sống đạo đức và trí tuệ,
phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an trụ, chánh niệm
và tỉnh thức trong từng phút giây của hiện tại. Không hoài vọng về
quá khứ để thoát khỏi thế giới kinh nghiệm đau thương. Không hoài vọng
về tương lai để không lo âu và sợ sệt. Sống một cách sáng suốt,
bình thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người sống
được như vậy thì lúc nào cũng "an" lúc nào cũng khỏe mạnh,
cũng hạnh phúc, không cần cầu nguyện và mong mỏi cũng được. Trái lại,
nếu chúng ta sống buông lung, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, không làm các
điều thiện, trái lại rơi vào con đường tội lỗi thì dù có cầu nguyện
bao nhiêu cũng không thể an ổn được. Trên tinh thần đó, để tránh hiểu
lầm, kinh cầu an nên đổi thành "kinh an lạc."
Cầu siêu là nguyện vọng hay ước muốn một người nào
đó được siêu thoát hay sanh về thế giới chư Phật. Do đó, chữ "cầu
siêu" có thể là hình thức viết ngắn của từ "cầu siêu độ"
hay "cầu siêu sanh" hay đầy đủ hơn "cầu siêu sanh Tịnh độ."
Như vậy cầu siêu là nguyện vọng và ước muốn nhắm tới chủ yếu là
người quá cố. Trong các nước Phật giáo Bắc tông do chịu ảnh hưởng của
pháp môn Tịnh Độ, các kinh được đọc tụng vào các lễ tang và đám giổ
thường là kinh A-di-đà, kinh Địa Tạng và Vu-lan. Tụng kinh A-di-đà chủ yếu
là nhắc cho người chết nhớ lại pháp môn niệm Phật thiền "nhất
tâm bất loạn" như là điều kiện tiên quyết để vãng sanh Tịnh Độ,
để hương linh nương theo đó niệm Phật mà vãng sanh. Tụng kinh Địa Tạng
một mặt nhằm ôn lại công đức hiếu thảo của bồ-tát này, mặt khác
phát huy và tu tập mảnh đất tâm (địa = tâm địa). Khi tụng kinh này,
con cháu của người quá vãng được dịp học hỏi về hiếu hạnh và còn
có cơ hội để trau dồi tâm tánh cho thuần thục. Đọc kinh Vu-lan để học
hỏi tấm gương báo hiếu đặc biệt của ngài Mục-kiền-liên. Nói chung
các bài kinh trên không chỉ có tác dụng tốt cho người quá cố mà hơn hết
là nhằm giáo dục cho thân quyến của người chết về các phương pháp tu
tập và làm phước. Theo đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai. Không
ai có thể giải thoát cho ai. Sự cầu nguyện chỉ mang tính cách biểu
tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ân đối với người quá
cố, và ở phương diện khác nhằm nhắc cho người quá cố biết về quy
luật sanh tử mà không còn quyến luyến thế gian, dễ dàng ra đi hay tái
sanh. Do đó, để tránh hiểu lầm, thuật ngữ "kinh cầu siêu" nên
đổi thành "kinh siêu độ" hay "kinh siêu thoát."
Nói tóm lại, để được sức khỏe và an lạc, theo đạo
Phật, chúng ta phải tu tập công đức, làm việc lành, sống tiết chế, ngủ
nghỉ ăn uống thích hợp, an trụ vào hiện tại, lấy chánh niệm và sự tỉnh
thức làm phương châm của cuộc sống. Được như vậy thì sự an lạc sẽ
hiện diện như người bạn đồng hành của ta trong cuộc đời. Tương tự,
để được siêu thoát, mỗi người phải tự trang bị cho mình các hành
trang đạo đức khi còn khỏe mạnh, để khi cơn vô thường đến, nhắm mắt
xuôi tay, nghiệp thiện của chúng ta sẽ dẫn dắt chúng ta tái sanh về cảnh
giới tốt hay vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Ở đây, không hề
có yếu tố tha lực. Tất cả tùy thuộc vào đời sống đạo đức, trí
tuệ và thái độ sáng suốt của chúng ta.
IV.
Cầu nguyện và kết quả [^]
Trong đạo Phật, cầu nguyện hay ước muốn dù là đạo đức
và cao thượng cũng có giá trị rất giới hạn, ở phạm vi của ý chí, chứ
chưa thể hiện cụ thể ở hành động. Đạo Phật do đó đề cao chủ
thuyết hành vi đạo đức có chủ ý (cetana) như là nền tảng của
các thành công và toại nguyện trong cuộc sống. Nói cách khác cầu nguyện
hay ước muốn dù tốt đẹp đến đâu nếu không có hành động hay ứng dụng
cụ thể cũng trở nên vô ích. Học thuyết hành vi đạo đức của Phật
giáo trên cơ sở này đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống đạo đức
của con người. Đạo Phật không dạy ta sống với những ước muốn hay cầu
nguyện suông, trái lại dạy ta các phương pháp cụ thể để biến niềm
mơ ước chân chánh và cao đẹp trở thành hiện thực.
Trên tinh thần hành động là quan trọng, ước muốn là phụ
thuộc, đạo Phật đã dạy chúng ta sống với một thái độ tự tin vào
các hành thiện và đạo đức của bản thân trong việc mang lại hạnh
phúc và sự toại nguyện trong đời. Một khi hiểu được đạo lý nhân quả
của Phật, nghĩa là hiểu rằng không có ai cầm cân cuộc sống thưởng phạt,
ngoài chính hành vi thiện ác của chúng ta, người Phật tử không phải mất
thời giờ để cầu nguyện hay ước muốn này nọ. Nếu thần linh không thể
giúp được họ trong các hành vi bất thiện nếu có của họ, thì thử hỏi
làm sao họ có thể cứu giúp được chúng ta. Thần linh và thượng đế nếu
có cũng không sống ngoài quy luật nhân quả tương duyên. Do đó, người Phật
tử không dại gì phải trông chờ vào một quyền năng bất thật của thượng
đế, chúa trời, mẹ sanh mẹ độ, đức ông, đức bà v.v… Người Phật
tử ý thức sâu sắc rằng, một khi đã tạo nghiệp ác, dù có van xin,
chúng ta cũng phải là người gặt hái kết quả đau khổ của nó. Không ai
có thể đánh đổ quy luật muôn đời này. Sau đây là một đoạn kinh cho
thấy rõ điều đó:
"Nếu ai làm 10 nghiệp ác, rồi một quần chúng đông
đảo đến cầu khẩn van xin, thành kính mong rằng người ấy sẽ được
sanh thiện thú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Làm 10 nghiệp ác phải
rơi vào đọa xứ. Sự thể như có một người quăng tảng đá vào hồ nước,
rồi nhiều người đến cầu khẩn van xin cho tảng đá ấy được nổi lên.
Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá, với sức nặng của nó,
không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu khẩn. Cũng vậy,
tạo 10 nghiệp ác thì phải rơi vào đọa xứ "(Tương Ưng IV, 313).
Ở đây lời của Phật nhằm xác quyết rằng hành vi ác
và bất thiện là nguyên nhân gây ra các hậu quả khổ đau, mà người đã
tạo ra nó phải gánh chịu trong đời của mình, dù hiện tại hay về sau.
Sức gia trì và cầu nguyện trong trường hợp này không có giá trị đạo
đức nào cả. Bởi lẽ, nếu cầu nguyện có kết quả thì chắc chắc rằng
những người triệu phú, tỷ phú trên thế gian này phải là những người
siêu sanh trước nhất, được hết tội trước nhất, do tiền rừng biển
bạc của họ tung ra trong các buổi cầu nguyện tôn giáo.
Theo đức Phật nhân quả là người thẩm phán tuyên án
đau khổ cho người đã tạo ra nghiệp xấu ác và ban thưởng hạnh phúc
cho người hiền lương. Vị thẩm phán này không thể bị các hình thức hối
lộ thế gian tác động, để cải đen thành trắng, để trắng án, như
trong các trường hợp của pháp luật đời. Vị thẩm phán của nhân quả
rất công minh, chính xác và không lầm lẫn trong khi phán quyết nghiệp báo
của các hành vi thiện ác.
Về phương diện cầu nguyện hay ước muốn thiện, đức
Phật cũng khẳng định rằng cầu nguyện về điều thiện mà không nỗ lực
thực hiện thiện cũng trở nên vô ích và không có kết quả nào cả.
Trong các buổi cầu nguyện cao đẹp, thường người ta mong mỏi cho mình
nào là có sức khỏe, sống thọ, có danh thơm tiếng tốt, có được sắc
đẹp, có hạnh phúc v.v… Đức Phật khẳng định rằng những thứ này
không thể do cầu nguyện hay ước muốn suông mà có được:
"Này các vị, có năm điều sau đây không thể do cầu
nguyện hay ước muốn mà có được: (1) tuổi thọ (àyu), (2) sắc đẹp
(va.n.na), (3) hạnh phúc (sukha), (4) danh tiếng (yasa) và (5)
sanh cõi trời (sagga 詮" [A"nguttara
Nikàya, III. 47]
Nghĩa là theo đức Phật, muốn có sức khỏe chúng ta phải
sống tiết độ, thiền định, không sa đắm sắc dục, không rượu chè,
hút sách, siêng thể thao, và ngủ nghỉ thích hợp. Muốn có sắc đẹp ta
phải biết giữ gìn sức khỏe, ăn uống kiêng cử, nghỉ ngơi hợp lý,
làm việc điều độ v.v… Muốn có đời sống hạnh phúc ta phải làm thiện,
bỏ ác, tuân thủ pháp luật, sống vì lợi ích của mình và người khác.
Muốn có danh tiếng ta phải siêng năng học tập, làm việc chăm chỉ, sống
có lương tâm, đạo đức, cương trực, liêm sĩ, công bằng, thanh cao, rộng
lượng giúp đỡ người khác và làm nhiều việc tốt. Muốn sanh cõi trời
thì phải tu nhân tích đức, phát triển 10 hạnh lành, tu thiền định, bố
thí cúng dường và làm nhiều việc từ thiện. Nói chung tất cả những thứ
đó không thể do cầu nguyện hay ước muốn mà có được. Ở đây, chúng
ta thấy chủ nghĩa hành động đạo đức là phương châm của một đời sống
hạnh phúc và an lạc theo Phật giáo.
Kinh điển Phật giáo cũng xác định rằng một đời sống
an lạc, hạnh phúc và giải thoát không phải là hệ quả của những ước
muốn cao đẹp mà là kết quả của quá trình nỗ lực trau dồi đạo đức,
thiền định và trí tuệ:
"Một người không chú tâm trong sự tu tập, dẫu có khởi
lên ước muốn được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ,
ước muốn ấy nhất định không được toại nguyện" (Tăng Chi
III A, 123. Tương Ưng III, 184).
Nói cách khác các ước muốn hay cầu nguyện cao đẹp trái
với nguyên lý nhân quả báo ứng chỉ là một sự mỏi mòn chờ đợi, vô
ích và không cần thiết, và đôi khi còn mang lại sự chán chường và thất
vọng:
- Vắt sữa nơi "sừng" con bò cái
Tìm dầu nơi thùng cát có nước
Dầu ước nguyện cũng không thành tựu
- (Kinh Trung Bộ I, 103).
Sự giác ngộ, giải thoát hay chứng đắc trong Phật giáo
là kết quả của quá trình dày công tu tập, chặt đốt phiền não, lậu
hoặc. Sự tận diệt phiền não là cội nguồn của Niết-bàn, của đạo
quả Vô thượng Bồ đề. Nhưng đó không phải là hệ quả của cầu nguyện
hay cứu rỗi:
"Muốn chứng được Vô thượng Bồ đề mà không đoạn
trừ Sát Đạo Dâm Vọng, chẳng khác nào như nấu cát muốn thành cơm, dù
trải qua ngàn ức kiếp cũng không thể nào thành tựu được" (Lăng
Nghiêm, VI, 234-242).
Trong quá trình hướng đến giải thoát của mọi hành giả,
Đức Phật đã tuyên bố là Ngài chỉ đóng vai trò của Đạo Sư dẫn đường,
không thể ban bố cho chúng ta kết quả giải thoát. Do đó để đạt chân
lý giải thoát, chúng ta phải là hành giả tu tập, như bài kệ dưới đây,
Đức Phật đã khuyên:
- "Hãy tự siêng trau dồi,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Tự hành trì thiền định,
Tự giải thoát ác nghiệp"
- (Kinh Pháp Cú, kệ 276)
Sự tu tập trên cơ sở nỗ lực của tự thân còn được
Đức Phật sánh ví với ốc đảo vững chắc, chính trên cơ sở này hoa tỉnh
thức sẽ nở rộ, phiền não nghiệp chướng bị tiêu trừ:
- "Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp sáng suốt,
Trừ cấu uế: thanh tịnh.
Đến thánh địa chư Phật"
- (Kinh Pháp Cú, kệ 236).
Và Đức Phật cũng lưu ý chúng ta, không phải từ Ngài,
không phải từ ân sủng cứu chuộc của Thiên Chúa, không phải do một ai,
mà chính do sự tự tu tập của chúng ta dẫn chúng ta đến sự giác ngộ.
Có như vậy, sự giác ngộ ấy mới vững chắc:
- "Chẳng phải nương người khác,
Mà đạt được Niết-bàn,
Do tự điều, tự nương,
Mà đích đến kiên cố "
- (Kinh Pháp Cú, kệ 323).
Do đó, người Phật tử khi nắm vững nguyên lý nhân quả
nghiệp báo là cán cân thưởng phạt chính xác, công bằng, nên không hoài
công nhọc sức mong đợi, vọng cầu. Trái lại khi làm xong bất kỳ việc
thiện nào, họ trở nên thản nhiên, ung dung, không chờ đợi kết quả, vì
họ biết chắc chắn rằng kết quả tốt sẽ đến, không chóng thì chày.
Hai câu thơ vô danh sau đây cho thấy một niềm tin chân chánh đó:
- Khai trì bất đãi nguyệt
- Trì thành tất tự lai
Tam dịch là:
- Đào ao chẳng đợi trăng sao
- Khi ao có nước trăng sao hiện về!
Nói tóm lại, cầu nguyện có giá trị rất giới hạn trong
đời sống đạo đức của người Phật tử. Người Phật tử theo đúng
tinh thần Phật giáo là người theo chủ nghĩa hành động thiện, chứ không
phải là người chỉ biết ước vọng thiện. Chính hành động thiện quyết
định đời sống đạo đức chứ không phải những cầu nguyện hay ước
nguyện chân thành.
V. Cầu
nguyện, phát nguyện và hồi hướng [^]
Trong Phật giáo đại thừa còn có hai khái niệm liên hệ
đến cầu nguyện là "phát nguyện" và "hồi hướng" hay
"hồi hướng công đức." Hai khái niệm này chứa tải ý nghĩa đạo
đức rất cao và đã trở thành nếp sống của các Phật tử theo truyền
thống Bắc tông hay đại thừa.
Trong nhiều trường hợp như chúng ta chứng kiến trong cuộc
sống, cầu nguyện thường phản ánh thái độ tâm lý mong cầu hay mong đợi
những lợi ích hay hạnh phúc cho bản thân mình, gia đình mình, đất nước
mình. Dù là các ước muốn hay mong mỏi thiện, nó cũng thường xoay quanh cái
ta, vì cái ta, dù nhỏ hay lớn. Nó có thể mang dáng dấp của vị kỷ,
trong sự sâu kín nhất của tâm hồn. Người ta thường cầu nguyện cho
người thân mình, chứ ít ai nghĩ đến việc cầu nguyện những điều tốt
lành cho kẻ thù mình, cho những người hảm hại mình. Thái độ tâm lý
này giới hạn vào người thân, người làm tốt cho mình, người có ân
ích với mình đã trở thành thói quen và tập khí của chúng sanh nhiều đời.
Các bậc bồ-tát của Phật giáo thì khác hẳn. Các ngài
không còn thái độ nhận thức lập cước trên thân sơ. Đối với các
ngài, tất cả chúng sanh là thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời kiếp
trong quá khứ. Chúng ta đã từng là cha mẹ, anh em, bạn bè, thân thuộc, vợ
chồng của nhau trong chuổi dài vô thủy của sanh tử. Tình thương thân quyến
và đồng loại không thể ngăn cản được các ngài. Lòng từ bi của các
ngài đã siêu vượt ranh giới của bỉ thử, ta người, thân sơ, thù bạn,
mà còn trải rộng đến các loài động vật và cây cỏ, côn trùng. Một
tình thương vô bờ bến như vậy đã thúc giục các ngài không sớm chứng
đắc đạo quả vô thượng bồ-đề để cứu độ chúng sanh đang đau khổ
trong ba cõi.
Đạo lý bồ-tát đã dạy người Phật tử mở rộng tình
thương và trí tuệ đến với mọi người và mọi loài. Một khi dấn thân
trên con đường bồ-tát, người Phật tử trước nhất phải biết "phát
tâm." Sự phát tâm bao gồm 2 bước: trước nhất là phát tâm giác ngộ
như Phật và bồ-tát (phát bồ-đề tâm) sau đó là phát tâm độ chúng
sanh. Phát tâm độ chúng sanh chính là "phát nguyện" của người học
theo hạnh bồ-tát. Phát tâm giác ngộ là một quá trình tự tu, tự độ.
Phát tâm độ chúng sanh và quá trình lợi tha, và cứu độ tha nhân. Hạnh
bồ-tát bao trùm tự độ và độ tha, chứa đựng đầy đủ nhân hạnh và
quả chứng.
Ngoài ra, người Phật tử còn phải biết hồi hướng công
đức tu tập của mình đến với tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường.
Nếu phát tâm giác ngộ và phát nguyện độ sanh là những tấm lòng vì đạo
cao cả, vì thương xót chúng sanh thì hồi hướng công đức là một thể
hiện cụ thể của tấm lòng giác ngộ và bao la đó. Nghĩa là người Phật
tử tu tập không phải vì cho mình mà cho người, thành quả giác ngộ và
công đức thu hoạch được không phải để dành riêng cho mình, mà còn san
xẻ đều cho chúng sanh. Chia xẻ công đức như vậy chính là làm cho tâm
mình giác ngộ, làm cho tình thương trở nên siêu vượt biên giới, thời
gian và không gian.
Nói một cách khác, người Phật tử hiểu rõ đạo lý của
đức Phật sẽ không còn cầu nguyện mang tính chất "thu hẹp" lợi
lạc cho bản thân mình, gia đình mình, quốc gia mình, mà hơn hết, phải biết
phát nguyện để "mở rộng" tấm lòng ra, hướng đến lợi ích của
người khác và tất cả chúng sanh; để có những hoạt động cụ thể, giác
ngộ mình và người. Tình cảm vị kỷ và mang tính giới hạn của "cầu
nguyện" đã được tình thương của "phát nguyện" thay thế.
Phát nguyện giác ngộ để tự độ. Phát nguyện hồi hướng công đức
cho tha nhân và chúng sanh là độ tha. Đây là hai đặc tính thay thế hoàn
toàn những cầu nguyện và ước muốn có tính cách hạn cuộc.
Không có gì cao đẹp cho bằng khi người Phật tử làm bất
kỳ việc thiện gì không phải chỉ cho mình, vì mình, mà còn cho người khác,
vì người khác và nói rộng ra là tất cả chúng sanh. Sự nghiệp cũng như
mục tiêu lớn nhất của người Phật tử là hướng đến sự giác ngộ
chính mình và chúng sanh. Sự phát nguyện và hồi hướng công đức của
người Phật tử cũng không ra ngoài mục tiêu giác ngộ trọn vẹn, nghĩa là
cùng nhau tu hành và thành Phật:
- Nguyện đem công đức này
- Hướng về khắp tất cả
- Đệ tử và chúng sanh
- Đều trọn thành Phật đạo.
***
V.
Kết luận [^]
Như vậy, đạo đức của người Phật tử không nằm ở
những hành vi đạo đức cho bản thân, mà cốt là cho xã hội loài người
và các loài động vật. Mục tiêu đạo đức rộng rãi như vậy rõ ràng
không thể phát sanh từ ước muốn đơn thuần, mà phải phát xuất từ từ
nhận thức giác ngộ cụ thể, hành động lợi tha cụ thể, để tất cả
chúng ta và chúng sanh cùng từng bước hướng đến và thành tựu con đường
và đạo quả giác ngộ, vượt thoát vĩnh viễn đau khổ.
Đây chính là điểm khác biệt căn bản nhất và quan trọng
nhất, giữa đạo Phật và các tôn giáo khác, không những về ý nghĩa cầu
nguyện mà còn ở tính chất vị tha, vô ngã bao la trong hành vi đạo đức
và thiện ích của người Phật tử trên con đường tu tập hạnh bồ-tát:
phát tâm giác ngộ, phát nguyện độ sanh, tu tập công đức và hồi hướng
công đức đó đến muôn loài, cốt chỉ để giác ngộ cho mình, người và
tất cả chúng sanh.
http://www.buddhismtoday.com/viet/nghithuc/viethoa-11-tnt-caunguyen.htm
|
|