...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN
ĐẠI BI TÂM ÐÀ LA NI
Đời Đường, Sa môn Dà Phạm Đạt Mạ (1) người xứ
Tây Thiên Trúc Hán dịch
Việt Dịch: HT. Thích Thiền Tâm
Như thế tôi nghe, một thời đức
Phật Thích Ca Mâu Ni (2) ngự nơi đạo tràng Bảo Trang Nghiêm,
trong cung điện của Quán Thế Âm Bồ Tát ở tại non Bổ Đà Lạc Ca (3)
, đức Phật ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang nghiêm thuần bằng vô lượng
ngọc báu tạp ma ni (4) , xung quanh treo nhiều tràng phan bá bảo.
Khi ấy, đức
Như Lai ở trên pháp tòa, sắp muốn diễn nói môn tổng trì Ðà ra ni (5)
, có vô lượng số Bồ Tát ma ha tát (6) câu hội, các vị ấy
là: Tổng Trì Vương Bồ Tát, Bảo Vương Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược
Thượng Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ
Tát, Đại Trang Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Kim
Cang Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát (7) , Phổ
Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (8) ...
Những vị Bồ
Tát như thế đều là bậc quán đảnh đại pháp vương tử (9) .
Lại có vô lượng vô số đại Thanh văn đều là bậc A La Hán (10)
, tu hạnh thập địa câu hội. Trong ấy, ngài Ma Ha Ca Diếp (11)
làm thượng thủ. Lại có vô lượng Phạm Ma La Thiên (12) câu hội.
Trong ấy, ngài Thiện Tra Phạm Ma (13) làm thượng thủ. Lại có
vô lượng chư thiên tử ở cõi trời Dục giới câu hội. Trong ấy, ngài
Cù Bà Dà thiên tử (14) làm thượng thủ.
Lại có vô lượng
hộ thế tứ Thiên vương câu hội (15) trong ấy, ngài Đề Đầu Lại
Tra (16) làm thượng thủ. Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ xoa,
Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhơn, Phi Nhơn (17)
câu hội. Trong ấy, ngài Thiên Đức đại Long vương làm thượng thủ. Lại
có vô lượng chư Thiên nữ ở cõi trời Dục giới câu hội, trong ấy,
ngài Đồng Mục Thiên nữ làm thượng thủ.
Lại có vô lượng
Thần Hư không, Thần Giang hải, Thần Tuyền nguyên, Thần Hà chiểu, Thần
dược thảo, Thần Thọ lâm, Thần xá trạch, Thần cung điện, cùng Thủy
thần, Hỏa thần, Địa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Thạch thần
v.v.. đều đến tập hội.
Bấy giờ, đức
Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong đại hội, mật phóng ánh thần thông quang
minh, chiếu sáng mười phương sát độ và cõi tam thiên đại thiên thế giới
này đều thành sắc vàng. Từ Thiên cung, Long cung cho đến cung điện của
các vị tôn thần thảy đều chấn động. Biển cả, sông nguồn, núi Thiết
Vi (18) , núi Tu Di (19) , cùng thổ sơn, hắc sơn, cũng đều
rung động dữ dội. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, và châu
báu và lửa đều bị ánh kim quang rực rỡ kia lấn át làm cho ẩn mất
không hiện.
Lúc đó, ngài Tổng
Trì Vương Bồ Tát thấy tướng trạng hy hữu ấy, lấy làm lạ cho là việc
chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, dùng lời
kệ hỏi Phật, để biết tướng thần thông kia do ai làm ra, kệ rằng:
Ai thành chánh giác trong ngày nay?
Khắp phóng ánh sáng như thế này.
Mười phương sát độ thành sắc vàng,
Cả cõi đại thiên cũng như vậy.
Ai được tự tại trong ngày nay?
Phổ diễn thần lực ít có này.
Không ngằn cõi Phật đều rung động,
Cung điện long thần cũng long lay.
Sức thần thông này ai làm ra,
Là ánh quang minh đấng Phật Đà.
Là của Bồ tát, đại Thanh văn,
Hay trời Đế Thích, cùng Phạm ma?
Nay trong chúng hội đều sanh nghi,
Chẳng biết đây là nhân duyên gì?
Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính,
Hướng trông về ngôi đại từ bi.
Đức Phật bảo
Tổng Trì Vương Bồ Tát:
"Thiện nam
tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên
là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm
đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà la ni môn. Vị Bồ Tát ấy vì
muốn làm cho chúng sanh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần
thông như thế".
Đức Như Lai vừa
nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa
y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: ''Bạch đức
Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho
chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được
giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng
nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ
hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ
bi doãn hứa".
Đức Phật bảo:
"Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú (20)
để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời,
vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế".
Quán Thế Âm Bồ
Tát lại bạch Phật: "Bạch đức Thế tôn! Tôi nhớ vô lượng ức kiếp
về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai,
đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh nên nói ra
môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngài lại dùng tay
sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm
chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà
làm cho họ được sự an vui lớn.
Lúc đó tôi mới
ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát
địa. Bấy giờ tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng:
Nếu trong đời
vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần
chú này, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.
Khi tôi phát thệ
rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất
mười phương rung động sáu cách (21) , ngàn đức Phật trong mười
phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng mười
phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội
của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi
lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử
vi tế (22) trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi vẫn hằng
trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ
sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường
gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà
di (23) hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước
tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà
phát nguyện:
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ các chúng sanh.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau được đạo giới định.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Ðịa ngục liền mau tự tiêu diệt.
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ,
Ngạ quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
Khi phát lời
nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu
bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai (24) , kế đó tiếp tụng đà
ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến
chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử".
Quán Thế Âm Bồ
Tát lại bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng
thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề không thành
chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi
Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không
được vô lượng tam muội biện tài (25) tôi thề không thành
chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện
tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi
tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí
thành. Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng
trì thần chú Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam, tôi thề không thành
chánh giác. Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất
không được toại nguyện. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn
uống của thường trụ (26) sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác
ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù
có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối
mười phương Ðạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì
chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại
Bi tâm đà ra ni, mười phương Ðạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên
tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này,
tất cả tội thập ác ngũ nghịch (27) , báng pháp, phá người, phá
giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ (28) , làm
nhơ phạm hạnh (29) , bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều
được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh
lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được
tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng,
cũng có thể làm nhân Bồ đề về kiếp xa sau.
Bạch đức Thế
Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị
15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt.
- Thế nào là
15 việc chết xấu?
- Không bị chết do đói khát khốn khổ.
- Không bị chết do gông tù đánh đập.
- Không bị chết vì oan gia thù địch.
- Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau.
- Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại.
- Không bị chết bởi rắn rít độc cắn.
- Không bị chết vì nước trôi lửa cháy.
- Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc.
- Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại.
- Không bị chết vì điên cuồng mê loạn.
- Không bị chết do té cây, té xuống núi.
- Không bị chết bởi người ác trù ếm.
- Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại.
- Không bị chết vì bịnh ác lâm thân.
- Không bị chết vì phi mạng tự hại.
Tụng trì thần
chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.
- Sao gọi là 15
chỗ sanh tốt?
- Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng Quốc vương hiền
lành.
- Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành.
- Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt,
- Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành.
- Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ.
- Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục.
- Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới.
- Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận,
có ân nghĩa.
- Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường
được đầy đủ.
- Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp
đỡ.
- Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ
khác cướp đoạt.
- Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại
nguyện.
- Tùy theo chỗ sanh, Long Thiên, thiện thần thường theo
ủng hộ.
- Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp.
- Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.
Nếu kẻ nào
trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt như thế! Cho nên tất cả
hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sanh lòng biếng trễ".
Khi đức Quán
Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng
thẳng, nở mặt mỉm cười, nói chương cú mầu nhiệm Quảng Đại Viên
Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng:
Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bát ra da.
Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đỏa bà gia. Ma ha ca lô ni ca da, án.
Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y
mông a rị gia bà lô kiết đế thất phật ra lăng bà đà. Nam mô na ra cẩn
trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng. Tát
bà tát đá na ma bà tát đa. Na ma bà già. Ma phạt đặc đậu. đát diệt
tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa,
tát bà, tát bà. Ma ra, ma ra. Ma hê, ma hê rị đà dựng. Cu lô, cu lô, yết
mông. Độ rô độ rô phạt xà gia đế. Ma ha phạt xà gia đế, đà ra đà
ra, địa rị ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế
lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm phật ra xá rị. Phạt sa phạt
sâm. Phật ra xá giạ. Hô rô hô rô, ma ra. Hô rô hô rô hê rị. Ta ra ta ra.
Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ,
bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na, bà dạ ma
na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ
nghệ, thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha.
Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả
kiết a ra tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn
trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ ta bà ha.
Nam mô hắt ra
đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bàn ra dạ.
Ta bà ha. Án, tất diện đô, mạn đá ra, bạt đà dạ. Ta bà ha.
Bồ tát thuyết
chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác,
mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng
lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng
quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả
A na hàm (30) , có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được
sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô
lượng chúng sanh phát lòng Bồ đề.
Khi ấy Đại Phạm
Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay
cung kính bạch với đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: "Lành thay đại
sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật hội, nghe nhiều
pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng
tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn
nghe".
Quán Thế Âm Bồ
tát bảo Phạm vương:
"Ông vì phương
tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe,
tôi sẽ vì ông mà nói lược qua.
Này Phạm vương!
Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước,
tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm
không chấp giữ, tâm vô thượng Bồ Đề, nên biết các thứ tâm này đều
là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu
hành".
Phạm vương
thưa: "Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo
của môn đà ra ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng
quên".
Bồ tát lại
nói tiếp: "Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này,
phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn
trai giới, đối với chúng sanh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì
tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ,
mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống
để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng
trì. Lúc ấy, sẽ có Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát cùng vô lượng
thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng
ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau
có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch
Vi Đà (31) và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sanh nào tụng
trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế
gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ
thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị
sơn tinh, tạp mị, các quỉ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến
cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỉ thần
ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi
lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện
thần, Long vương, Kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên
mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ".
Tiếp đó, Bồ
Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng:
Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ, (32)
Ô Sô Quân Ðồ Ương Câu thi, (33)
Bát bộ lực sĩ, Thưởng Ca la, (34)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma Hê Na La Diên, (35)
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La, (36)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La, (37)
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La, (38)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tát Giá Ma Hòa La, (39)
Cưu La Đơn Tra Bán Chỉ La, (40)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tất Bà Dà La Vương, (41)
Ưng Đức Tỳ La Tát Hòa La, (42)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La, (43)
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La, (44)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam, (45)
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na, (46)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,
Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực, (47)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, (48)
Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Sa Môn, (49)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, (50)
Hai mươi tám bộ Ðại tiên chúng,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, (51)
Táng Chi đại tướng, Phất La Bà, (52)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, (53)
Bà Dà La Long, Y Bát La, (54)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà,
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai thủy, hỏa, lôi, điển thần,
Cưu Bàn Trà vương, Tỳ Xá Xà, (55)
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Các vị thiện
thần này cùng thần Long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 Ðại lực dạ
xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại
Bi. Nếu người đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình,
các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng
nạn phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu, lạc mất đường về,
tụng trì chú này, thiện thần, Long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối.
Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa,
Long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa".
Đức Quán Thế
Âm Bồ Tát lại vì người tụng chú, nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai
họa rằng:
Hành giả đi trong núi đồng vắng,
Gặp những cọp sói, các thú dữ,
Rắn, rít, tinh mị, quỉ vọng lượng.
Tụng tâm chú này khỏi bị hại.
Nếu đi biển cả hoặc sông, hồ,
Những rồng rắn độc, loài Ma Kiệt, (56)
Dạ Xoa, La Sát, cá, rùa lớn,
Nghe tụng chú này tự lánh xa.
Nếu bị quân trận giặc bao vây,
Hoặc gặp người ác đoạt tiền của,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Giặc cướp khởi lòng tự thương xót.
Nếu bị vua quan, quân sĩ bắt,
Gông, cùm trói buộc, giam ngục tù,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Vua, quan tự mở lòng ân xá.
Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc,
Uống ăn để thuốc muốn hại nhau,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Thuốc độc biến thành nước cam lộ,
Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản,
Khổ vì ma quái làm ngăn cản,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Quỷ tà sợ trốn sanh an ổn,
Gặp rồng, dịch quỷ gieo hơi độc,
Nóng bức, khổ đau sắp mạng chung,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Bịnh dịch tiêu trừ, mạng trường cữu,
Rồng, quỉ lưu hành bịnh thũng độc,
Ung sang lở lói nhiều khổ đau,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Khạc ra ba lần hơi độc mất.
Chúng sanh đời trược khởi lòng ác,
Trù ếm hại cho thỏa oán thù,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Liền phản trở lại người trù ếm.
Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp,
Lửa dâm dục thạnh, tâm điên đảo,
Ngoại tình, xa vợ, bỏ chồng con,
Ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy,
Nếu hay xưng tụng chú Đại Bi,
Lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt.
Công lực Đại Bi chỉ lược qua,
Nếu ta nói hết không cùng kiếp.
Khi ấy, Quán Thế
Âm Bồ Tát lại bảo Phạm vương rằng:
"Này Phạm
vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ
ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng
21 biến, cứ tụng xong mỗi một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ
hoặc bỏ nơi đãy. Tâm chú Đại Bi đây do 99 ức hằng sa chư Phật đời
quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu
hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm bồ
đề chưa phát, mau được phát sanh; hàng thanh văn chưa chứng mau được chứng
quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng bồ đề, mau
được phát tâm Bồ Đề, nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa,
do sức oai thần của đà ra ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và
tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu
của họ đều được thành tựu.
Lại nữa, trong
tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở
chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ.
Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng
ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ
đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc
biên chép, tu hành môn đà ra ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ,
thì bốn quả Sa môn không cầu tự được. Công lực của thần chú này
có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng
trào, vách đá, núi nhỏ, núi Thiết vi và núi Tu Di thảy đều rung động,
lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều
phát tâm Bồ Đề.
Nếu chúng sanh
nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi, nên giữ trai giới
nghiêm sạch trong 21 ngày và tụng trì chú Đại Bi, tất đều được toại
nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến
kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt. Tất cả
chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương, thần, tiên,
Long vương, thảy đều chứng biết cho. Hàng trời, người nào thường thọ
trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng
sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì
bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu
sinh về Tây phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân
thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn
được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng
chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở
sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp
ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường
sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của
người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!
Lại nữa, người
trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất
cả thiên ma ngoại đạo, Thiên, Long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp
âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.
Người nào trì
tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99
ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng
quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.
Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu
độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết
tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền
định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy
chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên
biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường
theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà
ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường
trụ vì tam tai, ác kiếp(57) không thể làm hại. Nên biết người
ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại.
Nên biết người ấy chính là tạng Dược vương vì thường dùng đà ra ni
trị bịnh chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì
được tự tại dạo chơi nơi mười phương cõi Phật. Công đức người
ấy khen ngợi không thể cùng!"
Đức Phật bảo
Phạm vương:
- Này thiện nam
tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh,
thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật
hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú vào trong áo mà mặc,
hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà
dùng. Nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến, tất sẽ được sống lâu. Nếu
có thể kiết giới đúng pháp, và y như pháp mà thọ trì, thì mọi việc
đều thành tựu.
Phép kiết giới
như thế nào? Hoặc tụng chú vào lưỡi dao sạch, rạch đất xung quanh làm
giới hạn. Hoặc tụng chú vào nước sạch, rảy bốn phương làm giới hạn.
Hoặc tụng chú vào hột cải trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn. Hay
dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc tụng chú
vào tro sạch, rải xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc,
treo vây bốn bên làm giới hạn. Mấy phương pháp trên đây, dùng cách nào
cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 21 biến. Nếu tụng
trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả.
- Này thiện nam
tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn đà ra ni này còn được tiêu diệt
tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người
nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng
dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng trì đúng
pháp nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa
sẽ thành Phật. Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng
trì chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, thì sẽ
được vô lượng, vô biên công đức.
Nếu kẻ hành
trì khéo giữ gìn trai giới, dụng tâm tinh thành, vì tất cả chúng sanh
sám hối nghiệp ác đời trước tự mình cũng sám hối những ác nghiệp
đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng đà ra
ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng
được bốn đạo quả của bậc Sa Môn. Nếu là hạng lợi căn, có phương
tiện huệ quán thì quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì
làm khó, huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc
như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện.
- Này thiện nam
tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của
kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn tràng để chiếc
xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng
hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh, đúng bảy ngày như thế,
quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo.
Như hành nhơn
muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi
đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện
lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần
rộng lớn của đà ra ni này.
Đức Phật lại
gọi ngài A Nan mà bảo:
- Này A Nan! Khi
trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị quốc
vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng
khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm
tinh tấn đọc tụng chú này. Hành trì như thế luôn bảy ngày đêm thì
trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh,
dân chúng được an vui.
Lại trong một
xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm
lấn, dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bịnh dịch
lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhựt, nguyệt sai độ v.v... Muốn diệt
các thứ tai nạn như thế ấy, vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo
tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương,
hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng
thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu. Hành trì như thế đúng
bảy ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo,
thương mến lẫn nhau, trong triều từ vương tử cho đến trăm quan đều hết
dạ trung thành, nơi cung vi, phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với
vua, các thiên, long, quỷ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió
thuận hòa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp.
Lại nếu trong
nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền
của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống
để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt
những tai nạn ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên
Nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng đà ra ni này
đủ ngàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt,
gia đình được vĩnh viễn an vui.
Ngài A Nan lại
bạch Phật rằng:
- Bạch đức Thế
Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?
Đức Phật bảo:
Thần chú này có những tên như sau:
- Quảng đại viên mãn đà ra ni.
- Vô ngại đại bi đà ra ni.
- Cứu khổ đà ra ni.
- Diên thọ đà rani.
- Diệt ác thú đà ra ni.
- Phá ác nghiệp chướng đà ra ni.
- Mãn nguyện đà ra ni.
- Tùy tâm tự tại đà ra ni.
- Tốc siêu thánh địa đà ra ni.
Ông nên y như
thế mà thọ trì.
Ngài A Nan lại
bạch Phật:
- Bạch đức Thế
Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi,
mà khéo nói môn đà ra ni như thế?
Đức Phật bảo:
- Vị Bồ Tát
ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là
Thiên Quang Nhãn.
- Này thiện nam
tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô
lượng kiếp về trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai.
Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các
hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích
hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm
vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn,
xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường
Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội ,
mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà.
Đức Phật bảo
ngài A Nan:
- Thần chú của
Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối.
* Nếu muốn thỉnh
Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên
(chuyết cụ la chính là an tức hương).
* Nếu kẻ nào
bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tìm một bộ xương
của con mèo đã chết, đốt tan ra tro, rồi hòa với đất bùn sạch, nắn
thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn, tụng
108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Nên
nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một đao, kêu tên
loài ma mèo một lần. Làm như thế bịnh nhơn sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn
không dám phá hoại.
* Nếu người nào
bị chất độc của loài sâu cổ làm hại, thì thân nhơn mau dùng hương
dược kiếp bố la hòa đồng phân với chuyết cụ la hương vào nước
trong, sắc còn một chén. Xong, lại để chén thuốc ấy trước tượng Thiên
Nhãn tụng chú 108 biến rồi cho bịnh nhơn uống, liền thấy an lành (dược
kiếp bố la hương tức Long não hương).
* Nếu bị rắn
rít cắn, dùng vị Càn cương tán thành mạt, tụng chú vào đấy 21 biến,
rồi đấp lên vết thương, liền hết.
* Nếu bị kẻ
thù mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ
ấy. Xong, lại để hình nhơn trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi
dao 108 biến Đại Bi, cứ tụng xong mỗi biến lại chém xuống một dao,
kêu tên người kia một lần, rồi đem 108 đoạn hình đã chặt đốt tan. Y
theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui
vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau.
* Nếu bị bịnh
đau mắt, hoặc mắt kéo màng đỏ, mắt trắng đục, hoặc quáng manh, hoặc
hư tròng, không thấy được ánh sáng, nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma
lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ một quả, đem nghiền, vắt lấy nước.
Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ, miệng luôn niệm
Phật, chớ để cho mèo, chó, gà, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy. Vắt nước
xong đem hòa với bạch mật, hoặc sữa người. Sữa này phải là của phụ
nhơn sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái. Khi
hòa thành xong, đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108
biến. Trì chú vào thuốc rồi, bịnh nhơn phải ở nơi nhà kín, tránh gió
trong thời gian bảy ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt. Làm như thế, tròng
con mắt hư lại sanh, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ
(P.C: Ba thứ trái này xứ ta không có, bịnh nhơn nên phương tiện thay ba thứ
trái khác hoặc ba thứ thuốc khác có tánh cách trị bịnh đau mắt, nếu
như chí thành, cũng được linh nghiệm).
* Nếu bị bịnh
rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy
21 biến chú, rồi phủ lên mình thì bịnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Như
được da sư tử thì càng quý.
* Nếu bị rắn
độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, tụng chú
21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu.
* Nếu bị bịnh
rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn
ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một chén nước trong, sắc còn
nửa chén, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống, bịnh sẽ lành. Thuốc
này chớ cho phụ nữ sắc.
* Nếu bị loài
quỷ truyền thi, phục thi làm bịnh, dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21
biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy bảy khối hương lớn ước lượng
bằng lóng tay cái, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bịnh sẽ lành. Nên
nhớ: Bịnh nhơn phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân (58) và mắng
chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Thi La hòa với Bạch giới tử
và muối hột, gia trì chú 21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người
bịnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở (Ma Na Thi La là vị thuốc
Hùng Hoàng).
* Nếu bị tai
điếc lùng bùng, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bịnh sẽ lành.
* Nếu bị chứng
thiên phong, xụi nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi, dùmg dầu
mè sắc với vị Thanh Mộc Hương, gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình.
Bịnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp nữa: dùng sữa ngưu
tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bịnh cũng sẽ lành.
* Nếu phụ nhơn
sanh sản khó, mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rún và ngọc
môn, liền được dễ sanh.
* Nếu phụ
nhơn có nghén, thai nhi chết trong bụng, dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi
Đà, đổ hai chén sắc còn một chén, gia trì chú 21 biến mà uống, thì
cái thai liền ra, phụ nhơn không một chút đau đớn. Như thai y (nhau) không
ra, cũng uống thuốc này (A ba mộc lợi đà là vị Ngưu Tất).
* Nếu bỗng nhiên
đau nhói nơi tim chịu không kham, đây gọi là chứng độn thi chú, nên
dùng hương Quân Trụ Lỗ, tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai
nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bịnh
sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt (quân trụ lỗ là
vị thuốc Huân Lục Hương).
* Nếu bị phỏng
lửa thành ghẻ, dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa, bịnh sẽ
lành.
* Nếu bị sên
lải cắn, dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim, như bịnh nặng thì một
chén, gia trì chú 21 biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây.
* Nếu bị bịnh
ghẻ đinh dùng lá Lăng Tiêu đâm lấy nước, gia trì chú 21 biến mà thoa,
thì ghẻ liền ra cồi mà lành.
* Nếu rủi bị
con lằn cắn vào mắt, dùng phẩn mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia
trì 21 biến chú, đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bịnh
sẽ lành.
* Nếu bị đau
bụng, dùng nước giếng trong nấu với 21 hột muốn lớn, còn nửa chén
gia trì chú 21 biến uống vào, liền hết đau.
* Nếu bị bịnh
đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mờ mịt không thấy, dùng lá xa xa di đâm lược
lấy nước, gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm
một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy bảy biến chú nữa. Dùng
thuốc này nhỏ vào mắt, bịnh sẽ lành (Xa xa di là lá câu kỷ).
* Nếu người có
tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên, lấy chỉ trắng xe thành niệt, gia
trì chú 21 biến, kết thành 21 gút buộc nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng
những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội.
* Nếu trong nhà
sanh nhiều tai nạn, dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước
độ một tấc, mỗi đoạn hai đầu đều thoa mật tô lạc. Kế đó, đem lò
nhỏ để trước bàn Phật, cứ tụng xong một biến chú, liền đốt một
đoạn. Khi thiêu hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ.
* Nếu ở các nơi
đấu tranh, luận nghị, muốn được hơn người dùng cành bạch xương bồ
gia trì chú 21 biến, đeo nơi cánh tay mặt, tất sẽ được toại nguyện.
* Nếu muốn
được trí huệ nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn
2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất và sữa ngưu tô hòa với bạch mật,
cứ mỗi lần tụng chú lại đốt một đoạn. Nên nhớ trong một ngày đêm
chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thật hành đúng 7
ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ (PC: Mỗi thời tụng 1080 biến
tất là người tụng quá nhuần, và có định tâm nhiều).
* Nếu muốn
hàng phục đại lực quỷ thần, dùng củi cây A rị sắc ca, thoa sữa tô lạc
và mật vào, đem trước tượng Đại Bi gia trì, chú 49 biến, rồi đốt
trong lửa (A rị sắc ca dịch là Mộc hoạn tử, cũng gọi là vô hoạn tử,
một thứ cây có năng lực trừ tà, hạt của trái cây này có thể xỏ
làm hạt chuỗi).
* Nếu lấy một
lượng Hồ Lô giá na, đem đựng trong bình lưu ly, để trước tượng Đại
Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì
tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhơn trông thấy đều
hoan hỉ (hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng).
* Nếu thân bị
xiềng xích, dùng phẩn của con bồ câu trắng, gia trì chú 108 biến, tụng
xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự sút.
* Nếu vợ chồng
bất hòa, trạng như nước lửa, dùng lông đuôi chim oan ương, đem trước
tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn
đời vui hòa, thương yêu nhau.
* Nếu lúa mạ
hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ cắn, dùng tro và cát sạch hòa với nước
trong, gia trì 21 biến chú, rảy trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng,
thì sâu bọ không dám phá hại.
Đức Phật lại
bảo ngài A Nan:
- Quán Thế Âm
Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh
tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của
vị Đại Sĩ ấy hóa hiện.
(PC: Những chân
ngôn sau đây, chỗ có vạch ngang dài(¾) là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ
có ngang vắn (-) là hai chữ đọc hiệp lại làm một, muốn cầu điều gì,
đọc chân ngôn theo điều ấy).
Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn,
có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ , phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.
- Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi
tay cầm cành dương liễu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ tô tất địa, ca rị, phạ rị, đa nẫm đa, mục
đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng
phấn tra.
- Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi
tay cầm cái bát báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ , chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn
tra.
- Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng,
nên cầu nơi tay cầm châu nhựt tinh ma ni.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ , độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh,
tát-phạ hạ.
- Nếu muốn hàng phục tất cả thiên ma thần, nên cầu
nơi tay cầm bạt chiết la. (59)
* Chân ngôn rằng: Án ¾ nễ bệ nễ bệ, nễ bà dã, ma ha thất rị duệ,
tát-phạ hạ.
- Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi
tay cầm chày kim cang.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt-ra, chỉ nãnh, chỉ nãnh, bát-ra nễ
bát đa dã, tá-phạ hạ.
- Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hãi không
yên, nên cầu nơi tay thí vô úy.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt-ra, nẵng dã, hồng phấn tra.
- Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên
cầu nơi tay cầm dây quyến sách.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ chỉ rị, lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
- Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết
bịnh, nên cầu nơi tay cầm châu nguyệt tinh ma ni.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ tô tất địa, yết rị, tát-phạ hạ.
- Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi tay
cầm cung báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.
- Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi
tay cầm tên báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ ca mạ lã, tát-phạ hạ.
- Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng,
nên cầu nơi tay cầm gươm báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ đế thế, đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà
đà dã, hồng phấn tra.
- Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu
nơi tay cầm cây phất trắng.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá,
nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
- Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được hòa
thuận nhau, nên cầu nơi tay cầm cái hồ bình.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ yết lệ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
- Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả
ác thú, nên cầu nơi tay cầm cái bàng bài.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ dược các sam nẵng, na dã chiến nại-ra, đạt nậu
bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.
- Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn
quan quân vời bắt, nên cầu nơi tay cầm cây phủ việt.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ vị ra dã, vị ra dã, tát phạ hạ.
- Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu
nơi tay cầm chiếc vòng ngọc.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ bát na hàm, vị ra dã, tát-phạ hạ.
- Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi tay
cầm hoa sen trắng.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt ra, vị ra dã, tát phạ hạ.
- Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh độ, nên
cầu nơi tay cầm hoa sen xanh.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt ra, bộ ra bạn đà
hồng phấn tra.
- Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi tay cầm
cái gương báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhựt ra, mạn
trà lã, hồng phấn tra.
- Nếu muốn được diện kiến mười phương tất cả
chư Phật, nên cầu nơi tay cầm hoa sen tím.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ tát ra, tát ra, phạ nhựt ra, hồng phấn tra.
- Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên
cầu nơi tay cầm cái bảo kíp.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt ra, bát thiết ca rị, yết nẵng hàm
ra hồng.
- Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi tay cầm hóa
hiện mây ngũ sắc.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt ra, ca rị ra tra hàm tra.
- Nếu muốn sanh lên cõi Phạm Thiên, nên cầu nơi tay cầm
bình quân trì (60) .
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt ra thế khê ra, rô tra hàm tra,
- Nếu muốn được sanh lên các cung trời, nên cầu nơi
tay cầm hoa sen hồng.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ thương yết lệ, tát phạ hạ.
- Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến,
nên cầu nơi tay cầm cây bảo kích.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ thảm muội dã, chỉ nãnh hạ rị, hồng phấn
tra.
- Nếu muốn triệu tất cả chư thiên thiện thần, nên cầm
nơi tay ống loa báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ thương yết lệ, mạ hạ thảm mãn diệm, tát phạ
hạ.
- Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ thần, nên cầu nơi
tay cầm cây gậy đầu lâu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ độ nẵng, phạ nhựt ra.
- Nếu muốn mười phương chư Phật sớm đến đưa tay
tiếp dẫn, nên cầu nơi tay cầm xâu chuỗi ngọc.
* Chân ngôn rằng: Nẵng mồ ¾ ra đá nẵng, đát ra dạ dã, Án ¾ a na bà
đế vĩ nhã duệ. Tất địa tất đà lật đế, tát phạ hạ.
- Nếu muốn có được tất cả phạm âm thanh tốt nhiệm
mầu, nên cầu nơi tay cầm chiếc linh báu.
* Chân ngôn rằng: Nẵng mồ bát ra hàm bá noa duệ, án ¾ a mật lật đảm,
nghiễm bệ thất rị duệ, thất rị, chiếm rị nảnh, tát phạ hạ.
- Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu
nơi tay cầm chiếc ấn báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát phạ hạ.
- Nếu muốn được Thiên thần, Long vương thường đến
ủng hộ, nên cầu nơi tay cầm cu thi thiết câu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ a rô rô, đa ra ca ra, vĩ sa duệ, nẵng mồ tát phạ
hạ.
- Nếu vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sanh được
nhở sự che chở giúp đỡ, nên cầu nơi tay cầm cây tích trượng.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để,
na lật đế na dạ bát nảnh, hồng phấn tra.
- Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu
mến nhau, nên cầu nơi tay hiệp chưởng.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ bát nạp mạng, nhá lăng hất rị. (Theo trong
Tạng bản, lại có chân ngôn: Án ¾ vĩ tát ra, vĩ tát ra, hồng phấn tra).
- Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên
cầu nơi tay hiện hóa Phật.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị
na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.
- Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung
điện Phật, không thọ sanh ở bào thai, nên cầu nơi tay hiện hóa cung điện.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.
- Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi
tay cầm quyển kinh báu.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ a hạ ra, tát ra phạ ni, nễ dã đà ra, bố nễ
đế, tát phạ hạ.
- Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, tâm
bồ đề thường không lui sụt, nên cầu nơi tay cầm bất thối kim luân.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ thiết na di tả, tát phạ hạ.
- Nếu muốn mười phương chư Phật mau đến xoa đầu thọ
ký, nên cầu nơi tay đảnh thượng hóa Phật.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ phạ nhựt rị ni, phạ nhựt lãm nghệ tát phạ
hạ.
- Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi
tay cầm chùm bồ đào.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ A ma lã kiếm đế nễ nãnh, tát phạ hạ.
- Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được
no đủ mát mẻ, nên cầu nơi tay hóa nước cam lộ.
* Chân ngôn rằng: Án ¾ tố rô tố rô bác ra tố rô, bác ra tố rô, tố
rô dã, tát phạ hạ.
- Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi đại thiên, nên cầu
nơi tay tổng nhiếp thiên thủ.
* Chân ngôn rằng: Đát nễ dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tra ô hạ di dã, sá phạ ha.
- Này A Nan! Những
việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược
qua chút ít phần thôi.
Khi ấy Nhựt
Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú
để ủng hộ rằng:
* Nam mô bột
đà cù na mê. Nam mô đạt ma mạc ha đê. Nam mô tăng già đa dạ nê, đế
chỉ bộ tất đát đốt chiêm nạp ma.
Nhựt Quang Bồ
Tát bạch Phật:
- Bạch đức Thế
Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ
thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi
ngày chia ra làm ba thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy
theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo
đáng vui mừng.
Nguyệt Quang Bồ
Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng:
* Thâm đê đế
đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã
tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá phạ hạ.
Nguyệt Quang Bồ
Tát lại bạch Phật:
- Bạch đức Thế
Tôn! Tụng chú này năm biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt,
gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do bốn mươi hằng sa chư Phật
đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm
duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả
bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi.
Đức Phật bảo
ngài A Nan:
- Ông nên dùng
lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố
rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể
làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc
nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành,
dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành
lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị
đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có.
- Này thiện nam
tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể
nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ
thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên
gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các
ông, cả hàng trời, người long thần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ.
Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa
chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin,
nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp
không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không
biết bao giờ mới được ra khỏi.
Khi ấy, tất cả
chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ
đại Thiên vương, Thiên, Long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn
đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành.
THÍCH NGHĨA:
(1) Dà Phạm Đạt Mạ: tiếng Phạm (Bhagavaddharma), dịch
là Tôn Pháp, một vị sa môn người Ấn Độ, du hóa vào Trung Quốc, niên
hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường.
(2) Thích Ca Mâu Ni: tiếng Phạm (Sakyamuni) dịch là Năng Nhân Tịch Mặc,
Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên, ngài giáng sanh ở Trung Ấn Độ, 25 thế kỷ
về trước, tu thành Phật làm vị giáo chủ cõi Ta Bà.
(3) Bổ Đà Lạc Ca: Tiếng Phạm Potalaka, dịch là Quang Minh Sơn, tên một
tòa núi ở hải đảo phía Nam Ấn Độ, núi này hình bát giác, đức Quán
Thế Âm trụ tích nơi đây.
(4) Ma ni: tiếng Phạm Mani, dịch là trân bảo, ly cấu, như ý. Vì rất quý
nên gọi là châu, bảo; vì trong suốt, sáng rỡ nên gọi là ly cấu; vì tuỳ
sở biến hiện nên gọi là như ý.
(5) Đà ra ni (Dharani), dịch là Tổng Trì, có ba loại: một chữ, nhiều chữ
và không chữ. Vì bao gồm vô lượng pháp nên gọi là Tổng, vì giữ chứa
vô lượng nghĩa nên gọi là trì. Tổng trì có công năng phá tà lập
chánh, tiêu diệt nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
(6) Bồ Tát Ma Ha Tát (Bodhisattva mahasattva) Bồ tát dịch đại đạo tâm
chúng sanh, hoặc giác hữu tình, nghĩa là bậc chúng sanh có lòng đạo lớn,
và tuy giác ngộ mà còn có tình thức. Ma ha tát dịch là đại chúng sanh.
Nói tóm lại, Bồ Tát Ma Ha tát là đại Bồ tát, bậc Bồ tát lớn trong
hàng Bồ Tát.
(7) Di Lặc (Maitreya), dịch là Từ Thị, tên một vị Bồ Tát, sẽ nối
ngôi thành Phật, kế đức Thích Ca.
(8) Văn Thù Sư Lợi (Manjusri), có chỗ đọc là Mạn Thù Thất Lỵ, dịch
là Diệu Đức, hoặc Diệu Kiết Tường, tên một vị Bồ tát thường hầu
bên tả đức Thích Ca, giữ về phần trí huệ.
(9) Quán Ðảnh Ðại Pháp Vương tử: vị Bồ tát khi chứng ngôi đẳng giác,
trụ nơi cung điện trang nghiêm ở cõi trời Đại Tự Tại, chư Phật mười
phương phóng ánh sáng đến chiếu rót vào đảnh đầu (quán đảnh). Đây
là lễ ấn chứng cho chánh thức làm con của đấng Pháp vương (pháp vương
tử). Sau này sẽ nối ngôi Phật, lệ như thái tử thọ phong nơi vua.
(10) A La Hán (Arahat) ngôi cực quả trong hàng tiểu thừa, có ba nghĩa:
- Ứng cúng: đáng được thọ trời, người cúng.
- Vô sanh: đã dứt sự sống chết, không còn luân hồi.
- Sát tặc: giết chết giặc phiền não, hoại nghiệp.
(11) Ma Ha Ca Diếp (Mahàkasyàpa) Ma ha dịch là đại, Ca Diếp dịch là Ẩm
Quang, tên một vị đệ tử lớn của Phật, hạnh đầu đà bậc nhất. Khi
ngài mới sanh ra, có ánh sáng lấn át cả ánh sáng nhựt nguyệt.
(12) Phạm Ma La thiên (Brahman): gọi tắt là Phạm Thiên, tên một cõi trời
ở Sắc giới, Phạm nghĩa là trong sạch, vì chư thiên ở cõi này xa lìa sự
dâm dục, sống trong cảnh an vui của thiền định.
(13) Thiện Tra Phạm Ma: tên của vị thiên tử làm chủ cõi Phạm Thiên.
(14) Cù Bà Dà Thiên Tử: tên một vị thiên tử ở cõi Dục giới chuyên giữ
pháp lành cho chúng sanh.
(15) Tứ Thiên Vương: bốn vị thiên chủ ở bốn cung trời ở giữa chừng
núi Tu Di: phương Ðông Trì Quốc thiên vương, phương Nam Tăng Trưởng Thiên
Vương, phương Tây Quảng Mục Thiên Vương, phương Bắc Đa Văn Thiên Vương.
(16) Đề Đầu Lại Tra (Dhrtaràstra) cũng gọi là Đề Đa La Tra, tức Trì Quốc
Thiên Vương.
(17) - Thiên, tiếng Phạm gọi là Đề Bà (Déva) ta gọi là trời. Các vị
này do tu thập thiện nên hưởng phước thiên nhiên, sự ăn mặc tùy niệm
hiện thành.
- Long: tiếng Phạm gọi là Na Già (Nagà) ta gọi là rồng, loài này có thần
thông biến hóa, hoặc giữ cung điện trời, hoặc giữ địa luân, hoặc
làm mưa gió.
- Dạ xoa (Yaksa), còn gọi là Dược Xoa, dịch là Dõng Kiện, Bạo Ác hay Thiệp
Tật, một loài quỷ rất hung mãnh, bay đi mau lẹ, có phận sự giữ cung
khuyết, cùng thành trì của trời.
- A tu la (Asura): dịch là Phi Thiên, một loài thần có phước đức của trời
mà đức không bằng trời, có thần thông biến hóa song thân hình thô xấu,
vì kiếp trước hay sân hận.
- Càn thát bà (Gandharva) dịch là Hương ẩm, nhạc thần của trời Đế Thích,
dùng mùi thơm làm thức ăn.
- Ca lâu la (Garuda): dịch là Kim Súy Điểu, một loại chim thần cánh có
lông sắc vàng tốt đẹp, hai cánh xòe ra cách nhau đến 3.360.000 dặm, có
thần thông biến hóa.
- Khẩn na la (Kinnara) dịch là Nghi Nhơn, một loại thần giống người
nhưng không phải là người vì trên đầu có sừng, ca múa rất hay, thường
tấu pháp nhạc và ca múa cho trời Đế Thích nghe.
- Ma hầu la già (Mahoraga) dịch là Đại Mãng, hay Địa long tức là thần rắn.
- Nhơn phi nhơn: loại quỉ thần hình như người mà không phải là người,
hoặc có sừng, có cánh, có móng vuốt. Đây cũng là danh xưng chung cho bát
bộ quỷ thần vì họ không phải là người mà biến ra hình người đến
nghe Phật thuyết pháp. Kinh Xá LợI Phất vấn nói: "Bát bộ đều là
phi nhơn".
(18) Thiết vi: tên dãy núi thuần bằng sắt, có bốn hạng thiết vi. Hạng
thứ nhứt bao vây một tiểu thế giới (gồm một núi Tu Di, bốn đại châu
và biển cả), hạng thứ nhì bao vây một tiểu thiên thế giới, hạng thứ
ba bao vây một trung thiên thế giới, hạng thứ tư bao vây một đại thiên
thế giới.
(19) Tu Di (Sumeru) dịch là Diệu Cao, tên một tòa núi đứng giữa bốn đại
bộ châu, vì do bốn chất báu tạo thành nên gọi là Diệu, và cao hơn các
núi khác nên gọi là Cao.
(20) Thần chú: thần có nghĩa là linh thông, Chú có nghĩa là chúc nguyện, về
thể gọi là đà ra ni, về dụng gọi là chú.
(21) Đất rung động sáu cách:
- Phương đông nổi, phuơng tây chìm.
- Phương tây nổi, phương đông chìm.
- Phương nam nổi, phương bắc chìm.
- Phương nam chìm phương bắc nổi.
- Bốn phương nổi, chính giữa chìm.
- Chính giữa nổi, bốn phương chìm.
(22) Sanh tử vi tế: cũng gọi là biến dịch sinh tử. Đây là ước theo
nghĩa vô minh tiêu gọi là tử, pháp thân hiện gọi là sanh, chứ không phải
như tướng sống chết của vật loại. Vì sự sanh diệt này rất nhỏ nhiệm,
không phải phàm tình biết được. Nên gọi là vi tế.
(23) Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni (Bhiksu, Bhiksuni) người xuất gia khi đã thọ cụ
túc giới thì nam gọi là Tỳ khưu, nữ gọi là Tỳ khưu Ni. Danh từ này
có nhiều nghĩa, nhưng lối dịch chánh là khất sĩ. Khất sĩ nghĩa là trên
xin chánh pháp để dưỡng tánh huệ, dưới xin thực phẩm để nuôi sắc
thân. Ưu Bà tắc, Ưu bà di (Upàsaka, Upasika) dịch là cận sự nam, cận sự
nữ, đây là hàng đệ tử nam nữ của Phật sau khi thọ tam quy ngũ giới mới
có danh từ trên. Cận sự là gần gũi phụng sự ngôi Tam bảo.
(24) A Di Đà (Amita) dịch là Vô lượng thọ hoặc Vô lượng quang, có nghĩa
là đấng có mạng sống, và ánh sáng không lường. Đây là tôn hiệu của
đức Phật ở về thế giới Cực Lạc ở phương Tây.
(25) Tam muội, biện tài. Tam muội (Samadhi) dịch là chánh định, có nghĩa tâm
định ở một chỗ không xao động. Biện tài: tài biện luận.
(26) Của thường trụ: của nhà chùa. Vì của này không được phép bán,
hay dời đi đâu, thường ở một chỗ, nên gọi là thường trụ.
(27) Tội thập ác, ngũ nghịch: Thập ác là sát sanh, trộm cướp, tà dâm,
nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác, tham lam, giận hờn,
si mê, tà kiến. Ngũ nghịch là: làm cho thân Phật ra máu, giết cha, giết mẹ,
giết bậc hòa thượng A xà lê, phá sự hòa hợp của tăng chúng.
(28) Tăng kỳ (Samghika) dịch là Chúng số (số đông). Của tăng kỳ tức là
của thường trụ, của chung của số đông tăng chúng.
(29) Phạm hạnh: Hạnh thanh tịnh, xa lìa dâm dục.
(30) Tu Đà Hoàn (Srotàpanna phala), dịch là Nhập Lưu, có nghĩa là bậc đã
vào dòng thánh. Tu Đà hàm (Sakrdàgàmi), dịch là Nhứt Lai, có nghĩa là bậc
một phen trở lại cõi trần mới siêu thoát luân hồi. A Na Hàm (Anàgàmi) dịch
là bất lai, có nghĩa là không còn trở lại dục giới nữa, quả vị này
sanh ngay lên cõi trời Ngũ Bất Hoàn, tu cho đến khi chứng quả A La hán.
(31) Vi đà (Vedà) dịch là minh trí, kinh điển của hàng bà la môn, có bốn
loại: loại dạy phép dưỡng sanh, loại cúng tế cầu nguyện, loại bói
toán và loại phù chú.
(32) Mật tích Kim cang sĩ: Thiên thần cầm kim cang xử theo ủng hộ Phật. Gọi
là mật tích vì thần này thường theo Phật nghe những sự tích bản thệ
bí mật, hoặc các vị này do Phật, Bồ Tát thị hiện làm thần, tung tích
rất bí mật, chúng sanh không biết.
(33) Ô Sô quân đồ Ương câu thi (Ucchusma angùsa) Ô sô quân đồ cũng gọi
là Ô Sô Sa Ma, dịch là Uế Tích Kim Cang, Ương câu thi: có nghĩa là Phúc
Câu, tên một thứ vũ khí hình như cái móc. Đây là tên của một vị Minh
vương thần, có công đức chuyển uế thành tịnh, vị thần này và đầu
chân lông đều phun ra lửa, mặt mày phẫn nộ, có bốn cánh tay cầm những
thứ vũ khí: gươm, dây roi, xoa hoặc khúc câu.
(34) Bát bộ lực sĩ, Thưởng Ca La: Bát bộ lực sĩ chính là Thiên Long bát
bộ. Thưởng Ca La (Sankara) dịch là Cốt Tỏa Thiên, đây chính là tên vị
thiên thần bộ thuộc của đức Quán Âm, thống lãnh bát bộ.
(35) Ma Hê Na La Diên (Mahésvara Nàràyana): Ma hê gọi cho đủ là Ma Hê Thủ
La, có nghĩa Đại Tự Tại, dịch là lực sĩ hoặc Kiên cố. Đây là tên vị
thiên thần rất hùng mãnh, có ba con mắt, tám cánh tay, ở cõi Sắc Cứu
Cánh.
(36) Kim Tỳ La Đá Ca Tỳ La: gọi tắt là Kim Tỳ La Đà (Kumbhirabà) dịch
là Oai Như Vương, thân hình sắc trắng hồng, tay trái cầm bảo cung, tay mặt
cầm bảo tiễn
(37) Bà Cấp Ta Lâu La: Ta Lâu La cũng gọi là Ca Lâu La, đây chỉ cho vị thần
thống lãnh loài Kim Súy Điểu.
(38) Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La: Chân Đà La tức Khẩn Na La, đây là chỉ
cho tên vị thần thống lãnh loài Nhơn Phi Nhơn.
(39) Tát Giá Ma hòa La: Ma Hòa La cũng gọi Ma Dà La (Makara) tức là cá Ma Kiệt,
loài cá này rất lớn, cơ thể dài đến 700 do tuần. Đây là tên chỉ cho
vị thần thống lãnh loài cá Ma Kiệt.
(40) Cưu Lan Đơn Trà Bán Chỉ La: cũng gọi là Bán Chỉ Ca (panika), tức là
vị đại thần đứng vào hàng thứ ba trong hàng tám vị Dược xoa đại
tướng.
(41) Tất Bà Già La Vương: tức là thọ thần vương, vị thần làm chủ
các loài cây.
(42) Ứng Đức Tì La Tát Hòa La: dịch là Hoan hỉ thần. (43) Phạm Ma Tam
Bát La: tức là Phạm Thiên vương.
(44) Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La: gọi tắt là Diêm Ma Thiên (Suyàmadeva), vị
Thiên tử quyết đoán những nghiệp lành dữ của chúng sanh.
(45) Thích Vương Tam thập tam: tức là trờI Đế Thích ở cõi trời Đao Lợi,
làm chủ 33 cung trời, đây là chỉ cho vị Đế Thích cùng 32 vị thiên chủ
tùy thuộc.
(46) Đại Biện Công Đức Bà Đát Na: Bà Đát Na dịch là Tăng Ích, đây
là chỉ cho Đại Biện Tài Thiên vương.
(47) Thần Mẫu Nữ, chúng đại lực: tức là thần Quỉ Tử Mẫu, thống
lãnh đại lực dạ xoa.
(48) Tỳ Lâu Lặc Xoa vương (Virùdhaka): Tăng trưởng thiên vương.
(49) Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, gọi tắt là Tỳ Sa Môn (Vairasana) tức Đa
Văn Thiên Vương.
(50) Kim Sắc Khổng Tước Vương: tên một vị thần thân mình sắc vàng rực,
tay tả cầm phướng báu, trên báu có chim khổng tước (chim công).
(51) Ma Ni Bạt Đà La (Manibhadra) tức Bảo Hiền, một trong tám vị Dược
xoa đại tướng.
(52) Táng Chi Đại tướng, Phất La Bà: cũng gọi là Phất Bà La Ha
(Puspàraha) dịch là Thực Hoa, một trong tám vị Dược xoa đại tướng.
(53) Nan Đà, Bạt Nan Đà (Nanda, Upananda): dịch là Hoan Hỉ, Thiện Hoan Hỉ.
Tên của hai vị Long vương huynh đệ, Nan Đà là rồng lớn, Bạt Nan Đà
là rồng nhỏ. Hai vị Long vương này mỗi vị đều có bảy đầu, tay hữu
cầm đao, tay tả cầm dây.
(54) Bà Già La Long Y Bát La: Bà Già La dịch là Hàm Hải Long Vương, Y Bát La
dịch là Hương Diệp Long vương, mình rồng đầu voi.
(55) Cưu Bàn Trà vương, Tỳ xá xà: Cưu Bàn Trà (Kumbhànda) dịch là Yểm Mị
Quỷ, Tỳ Xá Xà (Pisàca) dịch là Đạm Tinh Khí Quỷ. Ðây là hai loại quỉ
vương trong bát bộ quỉ thần.
(56) Ma Kiệt: loại cá lớn, dài từ 300 đến 700 do tuần.
(57) Tam tai ác kiếp: Tam tai là hỏa tai, thủy tai, phong tai. Ác kiếp có nghĩa
là kiếp khổ sở, độc dữ. Khi thế giới này sắp tiêu tan, hỏa tai làm
hoại từ địa ngục đến cõi sơ thiền, thủy tai làm hoại đến cõi nhị
thiền, phong tai làm hoại đến cõi tam thiền.
(58) Ngũ vị tân: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ (hai thứ sau nước ta không
có).
(59) Bạt Chiết La (Vajra): dịch là Kim Cang Xử, đây cũng là một loại
chày Kim Cang.
(60) Bình quân trì dịch là tháo bình, tịnh bình, tức là bình để rửa
tay.
Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Việt dịch:
HT Thích Thiền Tâm.
Sưu tầm và đánh máy: Thanh-Sơn.
VA-2002
http://www.buddhismtoday.com/viet/niemphat/thienthuthiennhan.htm
|
|