- NIỆM PHẬT VÃNG SANH DƯỚI MẮT
NGÀI ẤN THUẬN
- Trích Ấn Thuận Đại Sư Ngữ Lục
Người thời nay cho rằng chỉ
ở Trung Quốc mới niệm Phật A Di Đà, người Ấn Độ hoàn toàn không niệm
danh hiệu vị Phật này. Nói vậy là không chính xác. Trên thực tế, Ấn
Độ- đặc biệt là vùng Tây Bắc Ấn đến Iran (xưa là An Tức)- Người
niệm Phật A Di Đà rất đông (nay thì không còn) chỉ vì lúc đó không lập
tông chuyên niệm như người Trung Quốc bây giờ. Vả lại, trong Đại Thừa
Khởi Tín Luận của Bồ Tát Mã Minh và Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Bồ
Tát Long Thọ đều từng đề cập thêm pháp môn này. Trong Vãng Sanh Tịnh
Độ Luận của Bồ Tát Thế Thân đặc biệt chuyên đề xướng pháp môn
này (Hoa Vũ Tập _QI, trang 355)
Niệm Phật không phải chỉ niệm
trong miệng, nên thường không quên Đức Phật cùng Tịnh độ của Ngài
và phát nguyện sanh về cõi ấy. Kinh Bát Nhã Tam Muội ghi: "Khi tu hành
niệm Phật A Di Đà, thành tựu Bát Nhã Tam Muội tức được thấy Phật A
Di Đà, cũng chính là thấy tất cả chư Phật hiện tiền cho nên có thể
nói Phật A Di Đà là đại diện chung cho tất cả các Đức Phật, đây là
ý nghĩa căn bản của Phật A Di Đà. (Hoa Vũ Tập _QI, trang 357)
Tiền thân của Phật A Di Đà là Tỳ
kheo Pháp Tạng, nay thành Phật thuyết pháp ở phương tây. Sau khi Ngài diệt
độ, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ kế tục ngôi vị Phật. Nếu thế giới cực
lạc ở phương tây, tức có phương hướng vị trí, cố nhiên thọ mạng của
Ngài cùng cõi nước ấy đều chẳng phải là vô lượng. Đây phải hiểu
như thế nào? Nhân vì tâm chúng sanh hữu hạn cho nên nói như vậy. Như
trong kinh Duy Ma Cật, Xá-lợi-phất nghi ngờ cõi uế độ của Phật Thích
Ca mà không biết đó là đó là mắt của Xá Lợi Phất thấy ra là uế chứ
chẳng phải cõi Phật xưa nay như vậy. Cõi nước Phật A Di Đà vốn là
vô lượng vì chúng sanh hữu lượng nên phương tiện nói ở phương tây như
vậy… như vậy… Đây chính là trong vô lượng hiện ra cái hữu lượng,
khiến cho chúng sanh từ hữu lượng đạt đến vô lượng (Hoa Vũ Tập _QI,
trang 358)
Bàn về Cực lạc, trứơc tiên cần
làm rõ có hay không có Tịnh độ, nếu như không có Tịnh độ, thì lấy
đâu vãng sanh? Nay nhận xét theo lý thường tình, không cần tự thân từng
trãi qua, cũng không cần hoàn toàn dựa vào kinh nói cũng có thể nhận định
chắc chắn là có. Nay xin nêu ra vài quan điểm như sau:
- Như Khoa học tiến bộ ngày nay đã chứng thật
thế giới của chúng ta chỉ là một hành tinh trong vô số tinh cầu, vậy
nên biết ngoài thế giới này còn có các loại thế giới khác.
- Lại hỏi các loại thế giới có sự tốt xấu
khác nhau không? Chỉ nhìn trên thế gian, các nơi đều có tốt xấu, có thể
suy mà biết được các loại thế giới ắt có tốt xấu.
- Nếu như thế giới có tốt xấu thì thế giới
này của chúng ta có phải là thế giới tốt đẹp nhất hay không? Nên biết
là không phải vậy. Thế thì không còn gì phải nghi ngờ về sự tồn tại
của một thế giới tốt đẹp hơn. Đến như giới khoa học ngày nay nhân
nơi sự bí ẩn của dĩa bay cũng cho là những tinh cầu khác có thể tồn tại
một sinh vật thông minh hơn chúng ta nhiều (Hoa Vũ Tập _QI, trang 359)
Từ những điều trên cho biết Tịnh
độ không những có mà còn có rất nhiều và sự thù thắng của nó khác
nhau. Trong giới Phật Giáo lại có nói "Duy tâm Tịnh độ" , cho là
Tịnh độ chỉ có ở trong tâm, ngoài tâm ra thật sự không có Tịnh độ.
Nói như vậy rất trái với ý của Phật. Nên biết, nói thế giới chỉ do
tâm hiện vốn không sai, nhưng đã nói vậy thì cũng nên biết uế độ
cũng là do tâm hiện. Nay thừa nhận uế độ do tâm hiện là thật có trứơc
mắt, sao lại không thừa nhận Tịnh độ do tâm hiện là thật có? Cho nên
đã tin Tịnh độ ắt tin nó thật có, không thể chấp lý bỏ sự. (Hoa Vũ
Tập _QI, trang 360)
Tịnh độ rốt cuộc là báo độ
hay hoá độ? (Tức thế giới Ứng hóa thân của Phật). Xưa nay nói (chỉ tạm
nói) Phật có hai thân: Pháp thân và Ứng hoá thân. Quốc độ của Pháp
thân là thật báo độ. Quốc độ của Ứng hoá thân là hoá độ. Nay quốc
độ này nếu như là báo độ thì những chúng sanh tội ác sao có thể đến
được? Nếu như là hoá độ, thì những chúng sanh chưa đoạn hết phiền
não cũng có thể nương vào nguyện lực tự thân và nguyện lực của Phật
có thể vãng sanh. Song quốc độ này dường như lại không rốt ráo lắm,
dường như chuyên vì giáo hóa những chúng sanh uế độ mà hiện ra để tiếp
dẫn họ. (Hoa Vũ Tập _QI, trang 360)
Nếu y theo kinh Bát Nhã Tam Muội
nói: "Người niệm Phật thành tựu được Đức Phật A Di Đà hiện
thân ra trước người ấy thuyết pháp, hành giả lúc đó khởi niệm quán:
"Phật há có đến, há có đi. Không đến không đi mà Phật hiện ra trước
mặt biết do tâm hiện. Tâm này niệm Phật, tâm này thành Phật, Phật tức
là tâm, tâm tức là Phật". Quán pháp như vậy,từ đó ngộ nhập thật
tướng các pháp, nếu như vãng sanh cực lạc, thì thế giới cực lạc tức
chẳng phải ứng hoá độ. Khi người kia hoa nở thấy Phật, ngộ vô sanh
nhẫn thì Tịnh độ ấy không ở phương đông, không ở phương tây mà biến
khắp mọi nơi, chính là báo độ vậy. (Hoa Vũ Tập _QI, trang 360)
"Niệm Phật tức sanh cực lạc".
Một số người giải thích: "Niệm Phật nhất định vãng sanh, ấy gọi
là đới nghiệp vãng sanh. Số người khác thì cho đây chính là "Biệt
thời ý thú", tức nói vãng sanh nhưng chẳng phải vãng sanh ngay mà phải
trải qua nhiều kiếp tiến tu cuối cùng ắt được vãng sanh. Kỳ thật Tịnh
độ chỉ một mà thấy là báo độ, hoá độ; đây hoàn toàn nhắm vào
trình độ tu hành của chúng sanh mà định.Nếu công đức tu hành sâu dày
vẫn có thể ngay Hoá độ được Pháp thân, thì Hoá độ này cũng không
lìa báo độ.(Hoa Vũ Tập _QI, trang 361)
Niệm Phật là dùng tâm để niệm,
nay có người chỉ niệm ngoài miệng là sai lầm. Niệm nghĩa là tâm chuyên
nhất nơi cảnh. Như khi niệm Phật thì tâm chuyên chú nơi danh hiệu Phật.
Khi niệm Pháp thì luôn luôn nhớ "Tất cả pháp không sanh không diệt",
chuyên nhất không quên. Tịnh độ tông có pháp môn ba thời chuyên nhất
là ý này. Có thể niệm đến nhất tâm bất loạn tức được thiền định,
thành tựu trí huệ ngoài ra không còn pháp nào khác. Niêm niệm tương tục
không lìa nhất niệm này; được như vậy tức có thể vãng sanh thấy Phật
A Di Đà.(Hoa Vũ Tập _QI, trang 371)
Công đức bố thí của Bồ Tát thật
sự có thể khiến cho chúng sanh thọ phước lạc không? Luận Đại Trí Độ
nói: "Bố thí cho tất cả chúng sanh là nói về quả baó; vì phước đức
không thể cho tất cả chúng sanh, mà quả báo thì có thể… Lấy trong quả
nói nhân cho nên nói phước đức cho chúng sanh. Nếu như phước đức có
thể đem cho người khác được thì phước đức tích tụ được của chư
Phật từ khi mới phát tâm có thể cho hết chúng sanh". Nếu như có thể
đem phước đức của mình hồi hướng cho chúng sanh, đó là trái với
nguyên tắc "Tự lực". Công đức vô lượng của Phật, Bồ Tát nếu
như có thể hồi hướng cho chúng sanh thì lẽ ra chúng sanh ở thế gian
không có khổ não, đều là Phật, Bồ Tát; cũng không cần Phật,Bồ Tát
đến hoá độ. (Hoa Vũ Tập _QII, trang 160)
Người Trung Quốc ca ngợi Tịnh độ
cường điệu thái quá tính chất đặc biệt thù thắng của Tịnh độ, những
thuyết như: "Hoành xuất Tam giới(1)" có phần nên xét lại.
"Hoành xuất Tam giới" có lẽ căn cứ theo "Hoành tiệt ngũ ác
thú, ác thú tự nhiên bế" (Cắt ngang năm đường ác, đường ác tự
đóng bít). Trong kinh Vô Lượng Thọ có người cho rằng pháp môn Tịnh độ
của Phật là Hoành siêu (2), những pháp môn khác là Thụ xuất:
Thụ xuất là từ từ, không bằng ra lập tức của Hoành siêu. Như vậy,
pháp môn Tịnh độ là tuyệt vời nhất! Theo tôi hiểu, pháp giải thoát
sanh tử của Phật đều là dứt ngay, là Hoành xuất; Thụ xuất(3)
không thể giải thoát Tam giới. (Hoa Vũ Tập _QIV, trang 175)
Hành giả Tịnh độ nhàm chán đời
ác năm trược mà vui cầu Tịnh độ. Đối với sanh tử trong ba cõi mà
nói, tâm ưa hay chán đều không qua khỏi sanh tử. Chẳng qua sống ở Tịnh
độ, do hoàn cảnh tốt "Các bậc Thượng Thiện câu hội một chỗ",
từ hoa sen hoá sanh; không còn sanh già bệnh chết mà thôi. Trong hoàn cảnh
như vậy nhất định sẽ giải thoát sanh tử, cho nên "trong nhân nói quả",
không ngại gì khi nói "vãng sanh Tịnh độ đã giải thoát sanh tử".
Chính như những vị đắc quả Tu đà hoàn, tuy còn sanh tử trở lại 7 lần,
nhưng quyết định giải thoát, nên có thể nói: "Sanh thân đã tận".
(Hoa Vũ Tập _QIV, trang 177)
Về việc tu hành, có phải ở Tịnh
độ sẽ mau hơn so với uế độ không? Kinh nói: "Tu hành ở Tịnh độ
không bằng ở uế độ". Như kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Ở cõi Ta
bà năm ác trược này: làm đức, lập thiện, chánh tâm, chánh ý, trai giới
thanh tịnh trong một ngày một đêm vượt hơn làm thiện ở nước Phật Vô
Lượng Thọ trăm kiếp". Có thể nói: Ở Tịnh độ tu tiến bộ chậm
nhưng không bị rơi đoạ, rất chắc chắn. Ở uế độ công đức tu hành
ưu việt tiến bộ nhanh chỉ có là bị chướng ngại nhiều, nguy hiểm hơi
lớn. Pháp môn uế độ cùng Tịnh độ "Hoành xuất Tam giới". (Hoa
Vũ Tập _QIV, trang 177)…..Còn tiếp.
http://www.buddhismtoday.com/viet/niemphat/vangsanh.htm