- HẠNH CÚNG DƯỜNG CỦA BÀ GOTAMI
- Maha Thong Kham Medhi
Vongs
...Lúc
nọ, đức Thế Tôn lại ngự về thành Ca Tỳ La Vệ lần thứ nhì. Ngài ngự
tại chùa Nigrodha, có vị Tỳ kheo mới xuất gia là tiền thân của đức Di
Lặc cùng nhiều vị thánh và phàm Tăng đồng theo hầu Phật.
Lịnh bà
Gotami là di mẫu của đức Thế Tôn hay tin đức Thế Tôn đã ngự về
thành Ca Tỳ La Vệ, bà lấy làm thỏa thích vui mừng và nghĩ rằng: "Kể
từ ngày đức Thế Tôn ngự về thành lần thứ nhất, đến nay là lần thứ
nhì ta chưa hề được dâng cúng vật gì chính tay ta tạo ra. Nếu nói về
sự cúng dường vật thực thì gia đình nào cũng có thể cúng dường được,
nhất là đối với gia đình của hoàng gia thì càng dễ, vật thực càng
quí giá. Vậy ta nên tạo ra bộ cà sa chính tay ta làm để cúng dường đến
Phật. Sự thật hàng vải, lụa là, nhung gấm trong hoàng cung không thiếu,
toàn là vật đắc giá, nhưng vẫn không xứng đáng với đức tin của ta
muốn tạo ra vật quí. Ta muốn tự tay ta tạo ra một khổ vải để cúng dường
đến Ngài, như vậy phước báu ấy mới hoàn toàn của ta".
Sau khi
nghĩ xong, bà truyền gọi thợ bạc đến lấy vàng làm ra bảy chậu to lớn,
lấy những lá cây thơm quí giá, ủ mục làm phân để vào những chậu
vàng lớn trồng bông vải, tưới bằng sữa tươi và để hoa thơm vào.
Chính tay bà vun phân tưới nước; khi có bông tự bà hái, bông vải ấy
có màu vàng óng ánh như vàng thoi. Bà cho mời những người thợ chuyên
môn giỏi nhất trong nước đến, truyền cất một tòa nhà to lớn đủ tiện
nghi cho những người thợ dệt chuyên môn ở, trần nhà làm bằng những thứ
hàng quí. Những người thợ ấy phải luôn luôn tắm rửa sạch sẽ, mặc
đồ sạch nhất và phải có ngũ giới hay bát quan trai giới cho trong sạch.
Bà lo kéo chỉ, sau khi thợ dệt đã dệt xong hai khổ vải, mỗi khổ mười
bốn hắc tay, bà trả giá cho những người ấy rất hậu. Hai tấm vải ấy
thật đẹp và rất quí giá, xứng đáng là vật cúng dường đến Phật bảo.
Bà xem đi xem lại rất hài lòng việc làm của bà. Bà để hai tấm vải
ấy trên mâm vàng rồi đội lên đầu đem vào chùa. Có rất nhiều phi tần
và tín đồ nghe tin bà tạo hai tấm vải quí đem vào chùa dâng cúng Phật.
Khi đến
chánh điện là nơi Phật đang ngự thuyết pháp giữa hàng ngàn Tăng chúng,
thật là một nơi tôn nghiêm yên tịnh, hình như những người đang ngồi
nghe pháp là những vị bằng hình tượng. Lịnh bà đảnh lễ đức Thế Tôn,
ngó quanh thấy chư Tăng ngồi lặng yên thu thúc lục căn thật đáng lễ
bái cúng dường, lòng kính thành và trong sạch của bà càng phát sanh mãnh
liệt.
Lịnh
bà bạch Phật rằng: "Bạch hóa đức Thế Tôn! đây là hai tấm vải
vàng, tự tay tôi trông nom vun phân tưới nước, hái bông và quay chỉ. Sự
cố gắng tạo nên hai tấm vải này do nơi đức tin lòng thành kính, ý nhất
định làm để cúng dường ngay đến đức Thế Tôn. Xin Ngài thâu nhận để
tôi được nhiều sự lợi ích an vui và hạnh phúc lâu dài".
Ðức
Thế Tôn đáp: "Thưa nương nương, xin nương nương hãy dâng cúng hai tấm
vải ấy cho chư Tăng, quả ấy còn cao thượng và quí báu hơn cúng dường
riêng cho cá nhân của Như Lai. Khi nương nương cúng dường cho Tăng là nương
nương cúng dường cho Như Lai và Tăng chúng.
Lịnh
bà Gotami yêu cầu đức Thế Tôn lần thứ nhì, lần thứ ba nhưng đức Thế
Tôn vẫn từ chối không thọ lãnh và cũng dạy nên đem cúng dường cho
Tăng cao thượng hơn.
Nơi đây,
trong chú giải có để câu: "Tại sao lịnh bà Gotami là di mẫu của Phật
dâng cúng đến Ngài mà Ngài không thọ lãnh. Trái lại, dạy đem cúng dường
cho Tăng có phước báu cao thượng hơn? Vậy có phải ân đức Tăng bảo
cao thượng hơn Phật bảo chăng?"
Ðáp:
"Sở dĩ đức Thế Tôn không thọ lãnh vì Ngài muốn làm cho quả bố
thí của lịnh bà Gotami cao thượng hơn. Vì khi lòng bà trong sạch muốn
cúng dường cho đức Thế Tôn, đây gọi là PUGGALIDÀNA nghĩa là cá nhân
tuyển thí, là bố thí còn chọn người mình kính mến thương yêu riêng.
Hơn nữa,
lòng trong sạch của bà thật cao thượng; lòng trong sạch ấy đủ ba nguyên
nhân trong ba giai đoạn mà người thí chủ nào muốn được phước đầy
đủ phải có là:
1.-
PUBBACETANÀ: Tâm trong sạch vui vẻ trước khi làm phước như bố thí v.v...
2.-
MUNCANACETANÀ: Tâm trong sạch vui vẻ trong khi đang làm phước.
3.-
APARAPARACETANÀ: Và tâm trong sạch vui vẻ sau khi đã làm phước xong.
Vì
nguyên nhân kể trên, đức Thế Tôn muốn cho bà cúng dường đến Tăng chúng,
không lựa chọn một cá nhân nào tự bà kính mến cúng dường. Khi người
còn chọn đối tượng để đem của ra bố thí, chính người ấy còn bị
phiền não lẫn vào làm cho tâm không được hoàn toàn trong sạch, vì người
bố thí còn lẫn trong sự lựa chọn bởi thương mến riêng của một cá
nhân. Người ấy bố thí với phiền não chớ không phải bố thí do nơi trí
huệ quan sát thấy vô thường, khổ nảo, vô ngã để mau giải thoát khỏi
phiền não.
Cao thượng
hơn, đức Thế Tôn muốn cho tín đồ hiểu rõ rằng: sự cúng dường đến
Tăng bảo có quả báu cao thượng. Hơn nữa, đức Thế Tôn biết rằng:
Ngài sẽ nhập diệt, chỉ còn Pháp và Tăng tồn tại đến năm ngàn năm. Nếu
người chỉ biết cúng dường đến Phật bảo, sau khi Phật nhập diệt thì
tín đồ không cúng dường đến chư Tăng thì làm sao chư Tăng sống được?
Phật giáo làm sao tồn tại đến năm ngàn năm? Vì lý do kể trên nên Ngài
không thọ lãnh vật cúng dường của bà Gotami. Còn nói về phước đức
nhiều hay ít, không có vật gì có thể đo lường hai công đức của Phật
và Tăng được.
Khi đức
Thế Tôn không thọ lãnh vật cúng dường của bà, bà thất vọng và rất
buồn tủi không biết giải bày nỗi khổ ấy cùng ai, chỉ biết khóc mà
thôi. Bà liền nhớ đến Ðại đức Ananda, bà vội đến tư thất của ngài
và bạch rằng: "Bạch Ðại đức! Không biết tôi có lỗi gì, đức Thế
Tôn không vui lòng thọ lãnh hai tấm vải của tôi cúng dường. Tôi cầu
xin Ngài vui lòng giúp tôi đến bạch xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi thọ
lãnh hai tấm vải cho tôi được sự lợi ích bình an lâu dài".
Ðức
Ananda nhận lời vào hầu Phật và bạch với đức Thế Tôn rằng: "Bạch
hóa đức Thế Tôn! xin ngài mở lượng đại từ đại bi thọ lãnh hai tấm
vải của bà Gotami, chính bà là di mẫu của Ngài. Khi Ngài vừa sanh được
bảy ngày Phật mẫu thăng hà, lịnh bà Gotami giao con đẻ của mình là
Nanda cho phi tần trông coi, còn chính lịnh bà săn sóc ngài. Ngài đã bú sữa
của bà từ ngày ấy cho đến khi trưởng thành, vậy ơn ấy là dường nào.
Hơn nữa hiện nay, lịnh bà là tín nữ đã thọ Tam qui, trì ngũ giới, và
đắc quả Tu đà hườn, người thấy Tứ Diệu Ðế bằng tuệ nhãn, không
còn nghi ngờ về Tam bảo thật là người đáng cho đức Thế Tôn tế độ".
Ðức
Thế Tôn phán rằng: "Người như bà Gotami rất đáng cho người đời kính
nể. Nhưng sự cúng dường tứ vật dụng đến các bực giáo chủ như Như
Lai bằng phương pháp trả ơn thật là việc không nên làm. (Ý đức Thế Tôn
dạy rằng không nên làm phước thuộc về cá nhân tuyển thí, vì bà nhọc
công làm để cúng dường cho một người, mà người ấy là cháu bà).
Rồi đức
Thế Tôn thuyết bài pháp gọi là PATIPUGGALIDAKKINÀDÀNÀ (nghĩa là cúng dường
chân chánh, còn chọn người để cúng dường). Trong đoạn Dakkhinàvibhanga
như vầy: "Này Ananda! Cá nhân tuyển thí có mười bốn hạng là:
1.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay đức Chánh đẳng chánh giác làm đối tượng
(là người thọ) cúng dường.
2.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay đức Phật Ðộc giác làm đối tượng cúng
dường.
3- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay vị đại A la hán, đệ tử của Phật làm đối
tượng cúng dường.
4.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để chứng quả
A la hán làm đối tượng cúng dường.
5.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay vị A na hàm, đệ tử của Phật làm đối
tượng cúng dường.
6.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang hành đạo để đắc quả A na
hàm, làm đối tượng cúng dường.
7.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay vị Tư đà hàm, đệ tử Phật làm đối tượng
cúng dường.
8.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để đắc Tư đà
hàm, làm đối tượng cúng dường.
9.- Người
thí chủ chú trọng chọn ngay vị Tu đà hườn, đệ tử Phật làm đối
tượng cúng dường.
10.-
Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để đắc
quả Tu đà hườn, làm đối tượng cúng dường.
11.-
Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị đạo sĩ ngoài Phật pháp đã đắc
Ngũ thông, làm đối tượng cúng dường.
12.-
Người thí chủ chú trọng chọn ngay người tại gia cư sĩ có giới đức,
làm đối tượng cúng dường.
13.-
Người thí chủ chú trọng chọn ngay người người cư sĩ không có giới
đức, làm đối tượng cúng dường.
14.-
Người thí chủ chú trọng chọn ngay một loại thú nào làm đối tượng cúng
dường.
Này
Ananda, sự bố thí cho loài thú có ơn với người (gia súc như trâu bò
v.v...), hoặc bố thí cho những con thú khác không có ân với người, sự bố
thí của người thí chủ ấy chỉ mong diệt phiền não, hay bố thí cho người
nghèo một bữa ăn no lòng mà có lòng diệt phiền não chứ không mong phước
nhiều ít, người ấy sẽ được hưởng phước năm trăm kiếp; sẽ được
năm điều quả báo: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh và nói năng hoạt
bát.
Nếu người
thí chủ bố thí cho người không có giới đức sẽ được năm điều quả
báo như trên một ngàn kiếp. Nếu người thí chủ bố thí cho người phàm
nhơn nhưng có giới đức trong sạch sẽ được hưởng quả báo kể trên
muôn kiếp. Bố thí đến vị thiện nam hay tín nữ có giới đức trong sạch,
hay vị Sa di hoặc thầy Tỳ kheo mới xuất gia lo hành thiền định, phước
người được hưởng tùy theo sự trong sạch của người thọ thí mà trả
quả cho người thí chủ. Bố thí đến vị tu hành hầu đoạt quả Tu đà
hườn trở lên, mà tâm người thí chủ trong sạch cố diệt phiền não chứ
không chọn người tùy thích để bố thí, phước ấy vô lượng vô biên.
Ananda
này, sự cúng dường đúng theo lẽ chánh cũng gọi là trai Tăng, hay cúng dường
đến Tăng có bảy điều là:
1.-
Cúng dường có đủ hai phái Tăng (Tỳ kheo Tăng và Tỳ kheo Ni), có đức Thế
Tôn chủ tọa.
2.- Sau
khi đức Thế Tôn nhập diệt người chỉ cúng dường hai phái Tăng.
3.- Hoặc
cúng dường cho một phái Tỳ kheo Tăng.
4.- Hay
cúng dường đến Tỳ kheo Ni.
5.- Hoặc
thí chủ đến nơi vị Ðại đức (Tỳ kheo) người có phận sự chia cho chư
vị Tỳ kheo khác đi thọ thực các nơi khi thí chủ đến thỉnh đi trai
Tăng, xin ngài chia cho bao nhiêu vị Tỳ kheo tùy theo sức của mình về nhà
cúng dường.
6.- Người
thí chủ đi đến nơi của Tỳ kheo Ni, chỗ vị có phận sự chia Tỳ kheo
Ni đi thọ lễ cúng dường của thí chủ, thỉnh bao nhiêu vị tùy theo khả
năng của mình về nhà cúng dường.
7.- Hoặc
đến nơi của Tỳ kheo Tăng hay Ni xin thỉnh một vị về nhà làm lễ trai Tăng.
Khi ấy các vị có phận sự cho vị Tỳ kheo nào đến nhà cũng được.
Bảy
điều Như Lai đã giải trên, về sau có một vị Tỳ kheo phá giới tạm gọi
là Tăng (vì không còn có giới đức), bọn ấy chỉ mặc một cái choàng
vàng nhỏ, hoặc một miếng vải vàng ở cổ mà tự xưng là vị Tỳ kheo.
Thí chủ
trong sạch cúng dường đến hạng Tỳ kheo phá giới ấy, nhưng trong thâm
tâm nghĩ rằng: đây là bố thí đến Tăng. Phước ấy có nhiều đến A
tăng kỳ kiếp. Như Lai không hề vì một lẽ nào dạy rằng; cá nhân tuyển
thí có phước hơn cúng dường đến Tăng. Sự thật cúng dường đến
Tăng phước báu nhiều hơn cá nhân tuyển thí.
Ananda
này, cúng dường cao thượng ấy có bốn điều là:
1.- Sự
cúng dường cao thượng ấy là phần thí chủ trong sạch.
2.- Sự
cúng dường cao thượng ấy là phần vị thọ thực trong sạch.
3.- Sự
cúng dường cao thượng ấy trong sạch cả hai bên.
4.- Sư
cúng dường ấy cả hai bên không bên nào trong sạch (nghĩa là người thí
chủ cũng như người thọ thí không ai trong sạch) toàn là hạng phá giới.
Rồi đức
Thế Tôn tự vấn rằng: "Ananda này, thế nào gọi là trong sạch một
bên?"
Ngài tự
đáp: "Nghĩa là người thí chủ có giới đức nhưng vị thọ thí
không có giới. Như thế này Như Lai gọi là bố thí cao thượng trong sạch
một bên là thí chủ, còn người thọ thí không trong sạch.
Sự
cúng dường cao thượng mà người thí chủ không trong sạch là thế nào?
Nghĩa là người thọ thí là người có giới đức hành phạm hạnh, còn người
thí chủ không có giới đức. Ðây gọi là sự cúng dường cao thượng
trong sạch do nơi người thọ thí có gới đức.
Thế nào
là trong sạch cả hai? Thí chủ và người thọ thí đều cùng trong sạch.
Nghĩa là thí chủ cũng như người thọ thí đều có giới đức trong sạch
hành phạm hạnh, như thế gọi là sự cúng dường cao thượng trong sạch cả
hai bên.
Thế
nào là sự cúng dường không trong sạch cả hai bên? Nghĩa là người thí
chủ cũng như người thọ thí cả hai đều không có giới đức, không bên
nào có hành phạm hạnh".
Trong
chú giải có đặt ra câu hỏi rằng: "Tại sao đức Thế Tôn đem sự cúng
dường cao thượng có bốn điều dạy trong trường hợp này?"
Ðáp:
Vì trong cách bố thí có bốn điều khác nhau là:
1- Người
thí chủ có phạm hạnh trong sạch.
2.- Người
thọ thí có phạm hạnh trong sạch.
3- Người
bố thí lẫn người thọ thí đều có phạm hạnh trong sạch.
4- Người
bố thí lẫn người thọ thí không có phạm hạnh trong sạch.
Nơi đây
ý nói rằng: Theo cá nhân của một vị Tỳ kheo phá giới nghĩa là không
có giới đức chi cả. Nhưng nếu nói chung là Tăng thì Tăng không bao giờ
phá giới. Tăng đây là chỉ chung một số các vị Tỳ kheo đã đắc Thánh
quả. Vì người cúng dường có tâm trong sạch hướng về Tăng, nên sự
cúng dường của thí chủ được quả cao thượng, tâm không hướng vào
cá nhân cúng dường.
Ðức
Thế Tôn liền thuyết thời pháp gọi là DAKKHINADÀNA, nghĩa là bố thí đúng
theo lễ chánh, làm cho tín đồ đượm nhuần lý thuyết cao siêu mầu nhiệm
của pháp bảo, nên diệt bỏ lòng trong sạch riêng với một cá nhân.
Có hai
hạng thí chủ là:
1.- Có
người trong sạch riêng với cá nhân nên khi bố thí chọn ngay vị hay người
chính mình trong sạch cúng dường. Ðây là nhân làm cho tâm người thí chủ
chồng chất thêm nhiều phiền não, chứ không có ích gì đến sự tu tập,
đã bỏ việc thương yêu thân thuộc đi tìm thêm kẻ thân thuộc bên
ngoài.
2- Có hạng
thí chủ tâm hướng về các bậc xuất gia, vị nào hay người nào cũng
được cần đến của cải mình đã có và sẵn lòng mang ra cho không hối
tiếc, không cần biết người ấy là ai.
Thời
pháp đức Thế Tôn dạy về cúng dường làm cho lòng người mát mẻ và hiểu
rõ chân lý của Phật. Có thể ví như trời mưa to trong mùa hạn hán, làm
cho đất được rút lấy nước thấm nhuần cho cây cỏ xinh tươi. Cũng có
nghĩa là tâm người thiếu trí tuệ chỉ biết trong sạch cá nhân, sau khi
nghe lời Phật dạy làm cho tâm sáng suốt không còn tối mê để rước thêm
phiền não vào tâm mà không hay biết.
Khi lịnh
bà Gotami được nghe thời pháp ấy làm cho tâm bà mát mẻ vì hiểu tại
sao đức Thế Tôn không thọ lãnh vật cúng dường của bà, vì muốn phước
báu bà cao thượng xứng đáng với tâm trong sạch và công khó của bà đã
cố tạo...
Lược
trích trong cuốn: LỊCH SỬ ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM, thiên thứ tám, trang
230. Tác giả: Maha Thong Kham Medhi Vongs.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/gotami-cungduong.htm