S
au
khi thiết lập ngôi Tam Bảo tại vườn Lộc Uyển, cổ thành Ba La Nại, Đức
Thế Tôn đã gởi 60 vị Tỳ kheo A La Hán đến các tỉnh thành Ấn Độ để
giáo hóa chúng sinh, mang ánh sáng của Chánh Pháp để làm an lạc cuộc đời.
Trước đó, Đức Phật đã khuyên nhủ các đệ tử nên cống hiến cuộc
đời của mình cho mục đích giáo hóa độ sanh: "Hãy ra đi này các Tỳ
kheo, vì sự an lạc và hạnh phúc cho số đông, vì sự tốt đẹp cho đời,
vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người. Không nên đi hai người
cùng một chỗ...(Go forth, O monks, for the benefit and happiness of the many, for the
good of the world, for the welfare and happiness of gods and men! Let not the two of you
go the same way...).
Hơn hai ngàn năm sau, bức thông điệp cao quý ấy vẫn được
duy trì và thực hiện tốt đẹp bởi các đệ tử của Ngài. Trong các nhà
truyền giáo Tích Lan trong thế kỷ 20 này như Pháp sư Anagarika Dharmapala,
Narada Maha Thera, Sayadaw U Thitilla và Piyadassi Maha....Đặc biệt tại Mã Lai,
các nhà truyền giáo tiên phong có Hòa thượng A. Pemaratana tổ khai sơn chùa
Mahindarama tỉnh Penang, Hòa thượng tiến sĩ Sumangala, Hòa thượng K
Gunaratana Nayaka Thera, Hòa thượng Kim Beng, Hòa thượng Chuk Mor và Hòa thượng
Dhammananda. Cả ba vị đầu đều đã viên tịch, nay chỉ còn lại HT.
Dhammananda, 75 tuổi, một người vẫn hoạt đôﮧ tích cực để chấn hưng
PG tại Mã Lai và cũng được xem là người có công tạo dựng nền tảng
cho PG Nam Tông tại Mã Lai.
Thở Thiếu Thời:
Hòa thượng Dhammananda, thế danh Martin (vì sanh ra trong thời
gian đô hộ của Thực dân Anh quốc, nên phải dùng tên tiếng Anh), sinh
ngày 18 tháng 3 năm 1919 trong một gia đình trung lưu, cha là cụ ông K. A.
Garmage tại làng Kirinde, tỉnh Matara, miền Nam nước Tích Lan (Ceylon), Ngài
là người con trưởng trong một gia đình có 6 anh chị em.
Ngài bắt đầu học tiểu học năm 7 tuổi tại trường làng
Kirinde. Không giống như những làng khác ở Tích Lan, Kirinde không bị hề hấn
đến chiến dịch truyền đạo của Ky Tô giáo. Nhờ thế mà PG vẫn còn
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sinh hoạt của người dân và ngôi chùa của địa
phương. Nhờ thế mà ngài đã tham gia vào những sinh hoạt PG của trường
và cộng đồng trong thời gian này. Bên cạnh người mẹ mộ đạo, ngài
được người cậu ruột là một Tăng sĩ trụ trì ngôi chùa của địa
phương này giúp đỡ và hướng dẫn ngài học Phật chẳng bao lâu ý tưởng
xuất gia học đạo phát khởi trong tâm hồn của ngài.
Năm 12 tuổi, Ngài xuất gia làm chú tiểu (samanera) với Hòa
thượng K Dhammaratana Maha Thera ở chùa Kirinda với pháp danh là Dhammananda,
(nghĩa là "người chứng nghiệm hạnh phúc qua giáo Pháp" (one who
experiences happiness through the Dhamma). Tiếp đó Ngài được gởi vào trường
để học Phật Pháp trong vòng 10 năm trước khi đăng đàn thọ Tỳ kheo giới
(Bhikkhu) vào năm Ngài 22 tuổi (1940). Hòa thượng đàn đầu trong giới đàn
này là Trưởng Lão K. Ratanapala Maha Thera tại chùa Kotawila.
Tu học tại Tích Lan và Ấn Độ:
Tiếp đó ngài đã ghi danh vào học trường Dhammarama
Pirivena và rồi Học viện Phật giáo Vidyawardhana tại thủ đô Colombo, niên
khóa 1935-1938. Giáo sư chính thức của Ngài là HT. Kotawila Deepananda Nayaka
Thera. Năm 1938, Ngài tốt nghiệp tại trường này và tiếp tục học tại
trường Vidyalankara Pirivena, ở Peliyagoda, là một đại học Phật giáo rất
nổi tiếng ở Tích Lan vào thời bấy giờ. Trong bảy năm lưu học tại đây,
ngài đã học Pali, Sanskrit, Triết học, Tam Tạng Kinh Điển và nhiều môn học
xã hội khác để trang bị cho chương trình giáo dục phổ cập và hoằng dương
Phật Pháp của ngài về sau. Ở tuổi 26, Ngài đã hoàn tất chương trình học
tại nơi đây.
Bảy năm được đào tạo trong môi trường Phật học và lối
sống nghiêm khắc của Tu viện tại đây đã mang lại những hữu ích về
sau trong sứ mạng truyền giáo của Ngài. Vị Pháp sư tinh thần của Ngài tại
đại học này là Trưởng lão Lunupokune Sri Dhammananda Nayaka Thera, một bậc
học giả uyên bác của Phật giáo Tích Lan.
Tiếp đó, vào năm 1945, HT. Dhammananda được đại học
Hindu, Ấn Độ cấp học bổng và Ngài đã lên đường du học. Bạn cùng
khóa với ngài lúc ấy hiện nay còn Hòa thượng P. Pannananda Nayaka Maha
Thera, (đang ở Tích Lan); Hòa Thượng Tiến sĩ. H. Saddhatissa Maha Thera (ở Luân
đôn); Hòa thượng Tiến sĩ U. Dhammaratana (chủ tịch Hội Đại Bồ Đề,
Ấn) và Hòa thượng Tiến sĩ Amritananda Thera (Chủ Tịch Hội Đồng Tăng Già
Nepal). Sau bốn năm học tại đây, HT. Dhammananda đã tốt nghiệp với bằng
cấp cao học về Triết học Ấn Độ vào năm 1949. Một trong số những giáo
sư nổi tiếng của Ngài tại đại học này là cố Tiến sĩ S.
Radhakrishnan, cũng là vị tổng thống đầu tiên của Cộng Hòa Ấn Độ.
Sau khi tốt nghiệp, Ngài trở về Tích Lan và mở một Trường
Phật giáo Sudharma tại Kotawila để giúp cho dân chúng học Phật. Ngài cũng
cho phát hành một tờ báo tiếng Tích Lan để phổ biến giáo lý. Những lớp
giáo lý, những bài thuyết pháp và nhiều hoạt động giáo dục khác của
ngài đều truyền cảm hứng đẹp đẽ cho dân làng quy hướng về Chánh
Pháp. Trong số những vị phụ giúp Ngài lúc đó có Đại đức K.Pemaloka và
đại đức K. Hemasiri, những người về sau vẫn theo Ngài đến Mã Lai để
tiếp tục công tác truyền giáo tại Brickfields.
Sứ mạng truyền giáo tại Mã Lai:
Năm 1952, Hòa thượng K. Sri Pannasara Nayaka Thera, Viện Trưởng
Tu viện Vidyalanakara Pirivena, đã nhận một lá thư từ Hội PG Sasana
Abhiwurdhi Wardhana, Mã Lai. Hội này có một ngôi chùa ở Brickfields, được
biết là một Hội PG lâu đời nhất trong cộng đồng Tích Lan tại quốc
gia này. Hội đã thỉnh cầu một vị Tăng thường trú để hướng dẫn đời
sống tâm linh cho cộng đồng Tích Lan tại nơi ấy.
Trong số 400 Tăng sĩ ở tu viện Vidyalankara Pirivena, Tỳ kheo
Dhammananda đã được tuyển chọn để gởi đi hoằng Pháp tại Mã Lai.
Ngài đã sẵn lòng tiếp nhận lời thỉnh cầu này dù Ngài rất muốn ở lại
quê nhà để hoằng Pháp. Tuy nhiên, Ngài ý thức được rằng tại Tích Lan
còn nhiều vị tăng khác có thể làm công tác của Ngài, trong khi ấy tại
Mã Lai, nhu cầu chấn hưng Phật Pháp là việc khẩn thiết, lúc bấy giờ
tình hình PG tại đất nước này, dù có nhiều chùa người Trung Hoa, nhưng
phần lớn không có giảng dạy giáo lý, phương pháp tu học mà cúng kiến,
nặng phần lễ nghi và mê tín. Do đó HT. Dhammananda quyết định lên đường
trong vòng một thời gian ngắn. Ngài đã xuống tàu thủy vào sáng ngày 2
tháng giêng năm 1952. Ba ngày sau Ngài đã đến được cảng Penang, miền Bắc
của Mã Lai.
Những Hoạt động hoằng Pháp đầu tiên tại Mã Lai:
Khi đến Penang, Ngài lưu trú tại chùa Mahindarama trước khi
đón máy bay đến chùa Brickfields ở Kuala Lumpur. Tháng 3 năm 1952, Ngài nhận
được một lá thư của Tổng Toàn quyền Anh tại Mã Lai, ông Gerald Templer,
yêu cầu được đến gặp Ngài để tìm hiểu xem Phật Pháp có mối liên
hệ nào với ý thức hệ Cộng sản (Communist ideology) chăng. Vì lúc bấy giờ
có nhiều nguồn tin cho rằng sẽ có những cuộc nổi dậy chống chính quyền
từ các cộng đồng PG người Trung Hoa. Những ý tưởng sai lầm về PG của
ông Toàn quyền Gerald đã được HT. Dhammananda đả thông và hướng dẫn
ông ta nghiên cứu Đạo Phật. Ngài nói với ông ta rằng Đạo Phật là một
tôn giáo từ bi và không bạo động vì Đức Phật đã hướng dẫn con người
sống trong hòa hợp và hòa bình với chính mình và người khác (Buddhism is
a non-violent and compassionate religion taught by the Buddha to show Man to live in peace
and harmony with oneself and others). Hòa thượng Dhammananda nhấn mạnh thêm rằng
Đạo Phật dạy cho con người tu tập tâm linh và sống có đạo đức,
trong khi Cộng sản là một phong trào chính trị. Đoán chắc HT. Dhammananda
không phải là "đơn vị thứ năm" của Cộng sản, toàn quyền
Gerald đã mời Hòa thượng giúp đỡ chính quyền về mặt tâm lý để trấn
an quần chúng, nhất là cộng đồng di dân người Hoa tại Mã Lai, vì chính
quyền hồ nghi rằng cộng đồng này có khuynh hướng theo chủ nghĩa Cộng
sản.
Hòa thượng Dhammananda đã nắm lấy cơ hội ấy để mở rộng
chương trình hoằng Pháp của Ngài trên khắp Mã Lai. Ngài đã giúp cho Hội
PG Sasana Abhiwurdhi Wardhana và Trung Tâm PG Selangor cũng như Hội Liên Hữu PG
Thế giới tại Mã Lai đẩy mạnh công tác truyền giáo. Kết quả cho thấy
cộng đồng người Hoa đã quy hướng về với đạo rất nhiều.
Trong hai thập niên 1950 và 1960, PG Mã Lai rất nghèo nàn ở
trong hầu hết các cộng đồng. PG trong thời kỳ này chỉ là một vỏ bộc
đầy những mê tín dị đoan, tràn lan trên khắp Mã Lai. Phần lớn người
Hoa trí thức đều chán ngán và bỏ theo đạo Ky Tô, vì họ nhìn thấy Ky
Tô giáo có nhiều sinh hoạt tôn giáo tích cực, rõ ràng, hợp lý do các
nhà truyền giáo nước ngoài mang vào.
HT. Dhammananda cố gắng làm rõ những quan điểm sai lầm về
PG là một đạo mê tín, lổi thời trong tâm trí của quần chúng có học
ở Mã Lai. Ngài đã phát động một phong trào diễn thuyết PG rầm rộ
trên toàn Mã Lai, phụ tá của Ngài bây giờ có các vị Tỳ kheo như K
Gunaratana, Chuk Mor and Tỳ kheo Tiến sĩ Sumangalo đã làm cho phong trào ngày
càng thêm thu hút và nhiều kết quả khả quan.
Sự phát triển của tổ chức hoằng Pháp:
Năm1961, HT. Dhammananda đã thảo luận với các nhà lãnh đạo
cư sĩ PG Mã Lai để thành lập một tổ chức truyền bá lời Phật dạy để
đáp ứng lại nhu cầu bức thiết của Mã Lai. Năm 1962, Hội Truyền Bá
Chánh Pháp (Buddhist Missionary Society/BMS) đã được thành lập tại chùa PG
Brickfields với các mục tiêu: Học hỏi và quảng bá PG và văn hóa PG; khuyến
khích và cổ võ mọi người học hỏi và hành thì Phật Pháp; in ấn và
phát hành Kinh sách PG; cung cấp những pháp môn phù hợp để mọi người
thực hành; an ủi, hướng dẫn, giúp đỡ cho mọi Phật tử trong các trường
hợp đau bệnh hay chết chóc v.v...
HT. Dhammananda nghĩ rằng một trong những phương cách để
truyền bá PG là viết sách về nhiều lĩnh vực khác nhau để người tín
đồ có thể nương theo đó mà hành trì trong đời sống hằng ngày. Vì thế
Ngài bắt đầu viết những bài báo, rồi những cuốn sách nhỏ bỏ túi, nội
dung của sách phản ảnh những thắc mắc của người Mã Lai. Một trong những
tập sách đầu tiên là hướng dẫn cách trì tụng Kinh tiếng Pali của Đạo
Phật sao cho tương hợp với thời khoa học và tâm lý học. Từ đó Ngài
tiếp tục viết nhiều tác phẩm khác để cung ứng cho nhu cầu học Phật
của tín đồ tại Mã Lai. Tính đến nay Ngài đã viết trên dưới 50 tác
phẩm, trong số này có nhiều tác phẩm đặc sắc như "Người Phật Tử
phải tin gì ?" (What Buddhists believe); "Làm thế nào để sống khỏi
sợ hãi và lo lâu" (How to live without fear and worry); "Bạn có tin tái
sinh không?'' (Do you believe in Rebirth); "Hạnh Phúc lứa đôi" (A happy
married life); "Thiền Định, con đường duy nhất" (Meditation, the Only
way); "Kho báu của Chánh Pháp" (Treasures of the Dhamma)... các tác phẩm
đã nhanh chóng thu hút mọi giới Phật tử Mã Lai và đến nay những tác phẩm
này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như Ấn Độ, Nam
Dương, Triều Tiên, Mỹ Nam Phi, Bangladesh, Hòa Lan.
Đây là lần đầu tiên nền giáo dục PG bằng tiếng Anh
được phổ biến trong giới Phật tử ở Mã Lai, trước đó chỉ có những
Kinh sách được viết chữ Tàu. Sự tác động mạnh này nhanh chóng ảnh hưởng
đến giới thanh thiếu niên Mã Lai. Kết quả, HT. Dhammananda đã nhận hàng
núi thư từ mọi giới, đặc biệt là học sinh và sinh viên để tìm hiểu
về Phật học.
Mặc dù không phải là một nhà Pháp sư hùng biện, nhưng
HT. Dhammananda đã làm say đắm giới trẻ với những bài giảng mang tính
khoa học, trong sáng và rõ ràng của Ngài. Điều này đã giúp cho nhiều hội
đoàn thanh niên Phật tử ra đời trong thập niên sáu mươi. Rất nhiều giới
trẻ hoặc đã nghe giảng hoặc đã đọc sách của Ngài mà quy hướng về
với Chánh Pháp.
Ngoài những ảnh hưởng bên ngoài xã hội, HT. Dhammananda cũng
có công đưa PG vào trong học đường Mã Lai. HT. Dhammananda đã kết hợp với
Thượng tọa tiến sĩ Sumangalo, một Tăng sĩ người Mỹ, thành lập một Học
viện PG để làm việc với đại học Malaya, đại học Sains Malaysia, đại
học Pertanian, Cao đẳng Kỷ thuật Malaysia, Viện Ngôn ngữ Mã Lai, Trường
Đại Học Sư Phạm Mã Lai, Trường Cao đẳng Tunku Abdul Rahman, Trường Cao
đẳng quân sự hoàng gia (Royal Military college) và gần đây nhất là đại học
Utara Malaysia ở Kedah. Tất cả những sinh viên của các trường trên đều
có học những giờ căn bản về giáo lý Phật giáo do HT. Dhammananda và nhiều
Pháp sư khác giảng dạy.
Để khuyến khích và cổ động tầng lớp trẻ học và
làm việc Phật, tổ chức của Ngài đã thu nhận giới trẻ vào làm việc
cho các cơ sở hoằng Pháp, Học viện, in ấn và phát hành kinh... đã có rất
nhiều cư sĩ tham gia và đã trở thành những người lãnh đạo các hội
đoàn cư sĩ Phật tử, nổi bật trong số hiện nay có các đạo hữu như
Mess Tan Gin Soon, Leong Kok Hing, Ang Choo Hong, Charlie Chia và Victor Wee, tất cả
đều được ảnh hưởng đến đạo đức và tác phong làm việc của HT.
Dhammananda.
Sự thừa nhận và tán dương về công hạnh hoằng Pháp:
Để thừa nhận và tuyên dương các công đức hoằng pháp
của HT. Dhammananda tại Mã Lai, Tăng thống PG Thái Lam, Đại lão Hòa thượng
Amunugama Rajaguru Sri Vipassi Maha Nayaka Thera ở Chùa Răng Phật (Buddha Tooth
Relic), đã phong ban cho Ngài danh hiệu "Đại đạo sư" (Chief Sangha
Nayaka Thera) của PG Mã Lai vào năm 1965.
Ngài cũng được cung thỉnh vào Ban chứng minh cho đại hội
lần thứ 9 của Hội Liên Hữu PG Thế giới nhóm tại Kuala Lumpur từ ngày
13 đến 20 tháng 4 năm 1969. Trong kỳ đại hội, Ngài cũng được tuyên dương
là một danh tăng của PG Mã Lai.
Vào năm 1970, HT. Dhammananda khởi xướng và làm cố vấn
tinh thần cho Hội Thanh Niên Phật Tử Mã Lai (The Young Buddhist Association of
Malaysia (YBAM) đây là một tổ chức đại diện cho tất cả các hội đoàn
Phật tử trẻ tuổi tại Mã Lai, hiện nay vẫn còn hoạt động rất mạnh.
Từ năm 1970 đến 1975, HT. Dhammananda khởi đầu những chuyến
đi hoằng Pháp thế giới. Trước hết ngài đến Anh quốc giảng tại
Lancaster University, Hull University, Manchester University và Oxford University. Sau đó
Ngài đến Hoa Kỳ và được thỉnh giảng tại Dhamma Realm University và Trường
University of Oriental Studies, trong dịp này Trường đại học Pháp giới
(Dhamma Realm University) này đã phong tặng bằng Tiến sĩ danh dự (Honorary
Doctor of Philosophy degree) để ghi nhận và tán thán công hạnh hoằng Pháp
và những công trình sáng tác của Hòa thượng. Bằng cấp này cũng được
các đại học khác phong tăng cho ngài đại học Đông Phương (University of
Oriental Studies) năm 1975, đại học Nalanda ở Pháp vào năm 1976 và đại học
Benares Hindu, Ấn Độ năm 1980, và đại học ở Sri Lanka vào năm 1991, ban tặng
cấp bằng Tiến sĩ văn chương (D. Litt.) để thừa nhận những tác phẩm
Phật học giá trị của Ngài đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực nền
giáo dục tôn giáo tại Tích Lan.
Thiết lập chương trình đào tạo tăng tài ở Mã Lai:
Vào tháng 12 năm 1976, HT. Dhammananda đã khởi xướng và làm
giám đốc chương trình đào tạo tăng tài cho PG Mã Lai, chương trình đã
được khắp nơi ở Mã Lai áp dụng và thành công đáng kể, ngay cả ở
Singapore cũng làm theo chương trình này. Đến nay chương trình vẫn được
duy trì và số thanh niên Mã Lai phát tâm xuất gia ngắn hạn ngày càng đông.
Vào ngày 25 tháng 3 năm 1977, HT. Dhammananda đã thành lập Viện
Phật Học Paramadhamma ở Tích Lan để tăng sĩ khắp nơi trên thế giới. Chương
trình đào tạo từ ba đến năm năm, hoặc những khóa ngắn hạn cho những
tăng sĩ hoặc cư sĩ lớn tuổi để đưa đi hoằng pháp ngay sau khóa học.
Những đóng góp cho xã hội:
Ngoài những hoạt động Phật sự, HT. Dhammananda còn có nhiều
đóng góp để phát triển cộng đồng. Năm 1960, Ngài là một trong những vị
lãnh đạo PG Mã Lai đứng lên đòi hỏi chính phủ Mã Lai tuyên bố ngày lễ
Phật Đản là ngày nghỉ của toàn dân, lời yêu cầu đã được chấp thuận
và vẫn duy trì cho đến ngày nay. Giữa những năm 1960, Ngài hoạt động tích
cực với Tổ chức liên tôn giáo Mã Lai (Malaysian Inter-Religious Organisation
MIRO) để kêu gọi các tôn giáo có mặt ở Mã Lai nên sinh hoạt trong sự
hài hòa và tương kính lẫn nhau.
Năm 1984, Ngài là một trong những thành viên sáng lập của
Hội đồng Tư Vấn Tôn giáo (Religious Consultative Council), bao gồm PG, Hồi
giáo, Ky Tô giáo để giúp cho chính quyền có những chính sách đúng đắn
đối với các tôn giáo. Do những hoạt động tích cực đóng góp cho xã hội
này mà ngày 7 tháng 6 năm 1991, Hoàng đế của Mã Lai đã phong tặng cho
Ngài tước vị cao quý "Johan Setia Mahkota".
Kết luận:
Không còn nghi ngờ gì nữa, Hòa thượng Dhammananda đã có
những đóng góp ý nghĩa để phục hưng lại PG Mã Lai trong bốn thập niên
qua. Nhiều tăng sĩ Therevada gốc Mã Lai đã xuất gia tu học và trở thành
những vị tăng tài giỏi như đại đức Mahinda, đại đức K. L. Dhammajothi
và đại đức Sujivo, đều do công đào tạo của Ngài.
Ngài cũng có trách nhiệm mời gọi những nhà truyền giáo
khác như các vị Hòa Thượng Pandit P Pemaratana Nayaka Thera, Hòa Thượng tiến
sĩ H Gunaratana Thera, Hòa Thượng Wimalajothi Thera, Hòa Thượng Dhammaratana
Thera, và nhiều tăng sĩ khác đến Mã Lai để giúp Ngài trong công tác truyền
giáo. Ngài cũng đã hợp tác và gần gũi với những nhà truyền giáo Đại
thừa khác như cố Pháp sư Tuyên Hóa, đến từ Hoa Kỳ; HT. Tinh Vân, đến
từ Đài Loan; Đức Dalai Lama đến từ Ấn Độ... để đem lại lợi ích
cho quần chúng Mã Lai.
Ngài được xem là một tăng sĩ Nam Tông phóng khoáng, cởi
mở và hợp tác với những tông phái khác của PG. Khi tham dự diễn đàn
''Hai bậc Thầy một lời dạy" (Two Masters One Message) tổ chức ở
Penang, với sự tham dự của các nhà lãnh đạo PG đến từ nhiều tông
phái. Ngài đã tuyên bố rằng: do nhu cầu của con người mà PG có Tiểu Thừa
và Đại Thừa. Đức Phật chỉ nói Pháp, chứ không dạy giáo lý cho Tiểu
Thừa và Đại Thừa hoặc Kim Cương Thừa.
Dù sinh ra và lớn lên ở Tích Lan, nhưng Ngài đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp giáo hóa tại Mã Lai trong tinh thần vị tha
và vô phân biệt đối với Phật tử thuộc nhiều sắc tộc, màu da và
truyền thống khác nhau tại xứ sở này. Đó là lý do tại sao Ngài nhận
được nhiều sự ủng hộ và kính phục của cộng đồng PG và nhiều cộng
đồng khác ở Mã Lai và trên thế giới. Rõ ràng là Ngài có đầy đủ bảy
phẩm hạnh của một bậc đại nhân (Seven Noble Qualities of a Great Man) mà Đức
Phật đã nói trong Kinh Sakha Sutta (A.N. 4:31) rằng: "Ngài là người đáng
yêu, đáng kính trọng, học thức, là một cố vấn, một người chịu khó
lắng nghe, sâu sắc trong đàm luận và không bao giờ chủ trương một cách
vô căn cứ" (He is lovable, respectable, cultured, a counsellor, a patient
listener, profound in discourse and never exhorting groundlessly).
Hiện nay HT. Dhammanda vẫn không mệt mỏi trong sứ mệnh giáo hóa ở Mã
Lai. Có rất nhiều người đã đạt được an lạc và hạnh phúc qua công
lao hoằng Pháp của HT. Dhammananda. Cách tốt nhất để mọi người đền đáp
công ơn ấy là nghiêm trì Phật hạnh và chia xẻ những lợi ích ấy cho người
khác. Nguyện cầu mười phương chư Phật gia hộ cho Ngài được pháp thể
khinh an, trụ thế lâu dài để cho tứ chúng nương tựa tu học.
(Theo tài liệu:
A Brief Introduction on His Life and Contributions to Malaysian Buddhism by Benny Liow
Woon Khin, 1999, và nhiều tài liệu khác. )
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/006-dhammananda.htm