...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Thiền Sư Ajahn Chah
- Tâm Thái
Cuộc đời Ajahn
Chah
Ajahn Chah (có nơi phiên âm là Achaan Chaa) (1918-1992) là một
vị cao tăng Thái Lan nổi tiếng về pháp Thiền thuộc Phật giáo Nguyên Thủy.
Ajahn là tiếng Thái Lan, dựa theo tiếng Phạn là Acariya (A xà lê), có nghĩa
là "thầy, sư" . Đại đức tu theo truyền thống khổ hạnh của các
vị tăng chỉ sống trong rừng chứ không ở chùa tại các đô thị. Các vị
tăng này chỉ thích sống trong rừng, và theo hạnh du tăng đầu đà
(dhutanga), hoặc sau này chỉ ở tại các nơi xa xôi, hẻo lánh, các vị chỉ
lập một chỗ sơ sài để tu hành, mà không làm những công việc khác như:
cúng lễ, dạy học, nghiên cứu kinh điển. Các vị tăng này xa lánh các nơi
đông đúc vì muốn để hết thời giờ vào việc hành Thiền một cách
toàn vẹn và nghiêm chỉnh.
Ajahn Chah sinh trưởng trong một gia đình khá giả tại miền
đông bắc Thái Lan. Đại đức xuất gia rất sớm và thọ giới Tỳ kheo năm
20 tuổi. Đại đức theo học nhiều thầy, trong đó có Ajahn Mun là vị tăng
Thái lan n?i tiếng trong thế kỷ này. Sau nhiều năm di chuyển trong rừng, tu
theo pháp khổ hạnh, đại đức trở về gần vùng nơi sanh trưởng và sống
tại một khu rừng rậm, không có người ở, chỉ có nhiều hổ, rắn. Nhưng
sau một thời gian thì nhiều người biết và đến xin thụ huấn nên dần
dà trở thành chùa Wat Pah Pong, gồm nhiều nhà nhỏ rải rác quanh đó.
Sau đó tại Thái Lan hàng trăm chùa theo pháp Thiền của đại
đức đã được thành hình do các đệ tử của đại đức dựng lập. Đại
đức đã đi thuyết pháp tại Anh, Mỹ và Gia nã đại. Một số rất đông
người Tây phương đã đến Wat Pah Pong thụ huấn và nhiều người đã
thành Tăng và trở về nước tiếp tục truyền bá Phật pháp. Chùa lớn nhất
tại ngoại quốc ở tại Chihurst (1979) và Amaravati (1984), Anh quốc, với vị
tăng gốc Mỹ Ajahn Sumedho trụ trì. Ngoài ra còn có trung tâm Dhammaloka và
thiền viện Bodhinyana tại Tây Úc, và các thiền viện khác ở Thụy Sỹ,
Tân tây Lan, v.v. Ajahn Chah mất đi năm 1992 tại Thái Lan. Nhiều sách bằng
tiếng Anh ghi lại những bài thuyết pháp của đại đức đã được xuất
bản, một số đã được Trung Tâm Narada tại Seattle, Washington dịch ra tiếng
Việt. Như Lai Thiền viện ở San Jose cũng có dịch một số sách.
Pháp Thiền của Ajahn Chah
Cũng như các pháp Thiền khác của Phật giáo Nam Tông, có
thể gọi pháp Thiền của đại đức là vipassana nhưng việc thực hành rất
đặc biệt, được mô tả là "đi thẳng vào trọng tâm của Thiền Phật
giáo". Pháp hành Thiền của đại đức giản dị và trực tiếp để
định tâm và đạt trí huệ. Những bài thuyết pháp của đại đức đều
giản dị, không cầu kỳ với những danh từ khó hiểu, có những thí dụ
rất thiết thực nên đại đa số có thể hiểu và hành được, mà vẫn
theo đúng Phật pháp thâm sâu. Đại đức không chọn một phương pháp cố
định nào mà chỉ tùy theo hành giả mà chỉ đường lối. Có người hỏi
đại đức tại sao nhiều khi những lời giảng gần như mâu thuẫn nhau
thì đại đức nói "Như tôi nhìn người bước đi trên đường, nếu
người đó sắp té về rãnh bên phải thì tôi nói họ phải bước qua trái,
nếu người đó sắp té về rãnh bên trái thì tôi nói họ phải bước qua
phải. Việc tu tập chỉ là giữ cho tâm thăng bằng, không chấp vào gì cả,
cần buông xả hết."
Đại cương pháp tu là theo dõi hơi thở ra vào cho đến khi
tâm an định, sau đó quán xét sự diễn tiến của thân, tâm để thấy rõ
tính cách Vô thường, Khổ, Vô ngã của chúng. Sự theo dõi, thấy biết
(awareness) một cách tự nhiên về hơi thở cũng như về sự diễn tiến
(sinh, trụ, diệt) của thân, tâm là điều căn bản của pháp Thiền này. Cần
giữ sự hằng biết (mindfulness), tức sự thấy biết đó một cách liên tục,
không bị ngoại cảnh cũng như những ý nghĩ lăng xăng làm gián đoạn.
Theo đại đức thì đạo Phật chủ yếu là tu tâm để đạt
đến giác ngộ, giải thoát. Tu tâm đây không chỉ riêng có nghĩa đơn giản
là làm điều thiện, tránh điều ác, mà là nhìn thẳng vào tâm, quán xét
cho kỹ để biết rõ sự hoạt động và bản tính của nó. Muốn tu tâm
thì hành giả phải tự cố gắng, kiên trì chứ không có đấng thần linh
nào làm thay mình được. Nhưng mỗi người có một tâm khác nhau nên cũng
khó nói có một pháp nào áp dụng cho tất cả mọi người được, vì vậy
đức Phật đã chỉ nhiều pháp khác nhau để mỗi người tùy căn cơ áp dụng.
Như trong kinh Tứ Niệm Xứ (Pali: Satipatthana Sutta), là kinh căn bản của Thiền
Nguyên thủy để phát triển Chánh Niệm và Tuệ Giải thoát, có kể đến
nhiều pháp hành khác nhau chứ không định rõ một pháp riêng biệt nào.
Trong bài kinh đó, nếu tìm hiểu cặn kẻ thì sẽ thấy có cả Samatha (Chỉ)
và Vipassana (Quán).
Tu Chỉ
Pháp Thiền Phật giáo nào cũng khởi đầu bằng tu Chỉ
(Samatha) để tập cho tâm yên tĩnh rồi mới tiến đến tu Quán. Pháp tu của
Ajahn Chah rất là thực tế, dễ hiểu nên nhiều người có thể áp dụng
được. Theo đại đức thì bước đầu cần áp dụng pháp "theo dõi hơi
thở" (Anapanasati) bằng cách chú ý vào chóp mũi hoặc môi trên gần
chân mũi, để thấy rõ hơi thở ra, hơi thở vào ở nơi đó. "Điểm
chánh là phải ghi thấy rõ hơi thở trong khi thiền, như vậy hành giả hằng
biết lúc nào hơi thở ra và lúc nào hơi thở vào. Khi bước đi thì thấy
rõ cảm giác khi chân chạm đất."
Lúc đầu nếu chưa chú tâm được thì có thể theo dõi hơi
thở vào đi qua mũi, ngực, bụng, còn hơi thở ra từ bụng lên ngực và mũi.
Sau khi đã có tiến bộ về sự chú tâm thì chỉ cần theo dõi hơi thở ở
mũi thôi. Trong bước đầu mà sự chú tâm còn yếu thì có thể dùng câu
chú "Bud-dho", niệm "Bud" (Bút) khi thở vào, "dho"
(thô) khi thở ra. Cũng có thể niệm "Dhammo" (Thăm-mô) hoặc
"Sangho" (Xẳng-khô). Câu chú chỉ có mục đích chú tâm chứ không
có mục đích nào khác nên đại đức nói là có thể dùng câu nào khác cũng
được. Điều cần là phải tập cho đều thì mới có kết quả tốt. Khi
đang theo dõi hơi thở nếu có ý nghĩ khác chợt đến thì cần gạt đi để
chỉ thấy biết có hơi thở. "Đừng nghĩ đến điều gì hết - chỉ
theo dõi hơi thở", đó là điều mà đại đức nhắc nhiều lần.
Trong khi tu Chỉ thì "Đừng nghĩ" đây không phải là chỉ nói
riêng đến những ý nghĩ lăng xăng vô ích mà ngay cả những ý nghĩ như cố
giữ cho tâm an tịnh, như cố gắng để chứng đắc, hoặc cố giữ cho đừng
có ý nghĩ nào nổi lên.
Điều khó khăn khi bắt đầu tu Chỉ là hành giả muốn
tâm yên tĩnh để chú tâm theo dõi hơi thở nhưng những ý nghĩ không đâu
vẫn ào ào nổi dậy, mặc dù có đem hết ý chí cương quyết để dẹp bỏ
mà không được. Hành giả trở nên chán nản vì cái tâm "bất trị"
và cho rằng không thể nào tu được. Đại đức thấy rõ điều này nên
trong nhiều bài giảng đã chỉ kỹ càng.
Điều cần trước hết là phải kiên trì tiếp tục vì tu
tập lâu ngày sẽ có kết quả tốt chứ không thể muốn gì cũng cấp tốc,
tức khắc. Điểm chánh là cần biết nhìn thẳng vào tâm mình để hiểu nó
thì mới có kết quả được. Cái tâm chưa được luyện tập thì đặc tính
tự nhiên của nó là vọng động, chạy chỗ này, chạy chỗ kia, không lúc
nào ngừng. Đặc tính của tâm phàm là vậy, mình đang sống với phiền não
thì tâm đó không ngừng dao động. Thấy được tánh chất của tâm phàm
là vậy thì mình sẽ không thấy khổ sở và chán nản khi muốn trị nó
ngay mà không được. Thấy điều đó là đã bắt đầu nhìn rõ "như
thực", tức vạn vật thế nào, thấy được như vậy. Lúc đó hành giả
có thể nói: "À thì ra tâm vọng tâm nó là như vậy." Hành
giả sẽ không còn thấy cần phải chống đối với nó nữa.
Sau đó hành giả chỉ cần "theo dõi" hơi thở, tức
là chỉ thấy biết một cách tự nhiên, không phải chủ ý điều khiển
hơi thở, cũng không phải là tập trung tư tưởng. Đại đức kể kinh nghiệm
riêng: "Khi tôi không làm gì đặc biệt hết và tôi không đang hành
Thiền, thì tôi thấy bình thường. Nhưng khi tôi có chủ ý là tập trung tư
tưởng thì tâm trí tôi rối loạn. Mọi cố gắng để bắt buộc tâm mình
an tĩnh chỉ là biểu thị sự bám chấp và mong cầu, điều đó lại càng
khiến tâm rối loạn". Tâm đang rối loạn mà nay lại thêm ý muốn
là mình phải trị cho nó yên lặng, chỉ làm tăng thêm sự rối loạn.
Nói như vậy không phải là hành giả cứ ngồi yên để các
phiền não tiếp tục khuấy động như trước. Chính lúc hành giả thấy
rõ những cảm giác, ý nghĩ lăng xăng nổi lên và hiểu rằng chúng chỉ
là trạng thái tự nhiên của tâm vọng thì sẽ thấy là chúng không có một
thực thể mà chỉ là hiện tượng do duyên nào đó tạo ra thôi và do mình
bám níu mà có. Thí dụ như khi đang ngồi Thiền mà có tiếng động nào đó
làm mình cảm thấy bực tức, khổ sở. Thực ra tiếng động tự nó đâu
có ý thức muốn gây phiền não cho hành giả. Mà chính là tâm hành giả đã
tạo ra phiền não đó. Tiếng động là một hiện tượng ở ngoài, mà tâm
hành giả đã thọ nhận rồi tạo ra sự bực tức. Chỉ cần coi tiếng động
là tiếng động, tâm mình là tâm mình, không bám níu, không chấp vào đó
thì mọi sự an bình. Biết như vậy, hành giả chỉ cần ghi nhận những ý
nghĩ, cảm giác nổi lên mà không chạy theo, bám níu chúng thì tự chúng sẽ
qua đi, sau đó hành giả tiếp tục chú tâm vào việc theo dõi hơi thở.
Đó là hành giả đã biết tách rời tâm và cảm giác,
không để tâm bị cảm giác chi phối. "Cảm giác" (feeling, danh từ
Pali là Vedana, tức Thọ) dùng theo nghĩa của đại đức là những tâm trạng
khởi lên khi ngoại cảnh hoặc hình bóng ngoại cảnh qua sáu căn, tác động
vào tâm. Ngay những lúc không ngồi Thiền, hành giả vẫn theo dõi tâm trạng
của mình đễ biết rõ chúng đang ở trạng thái nào, đang bị những cảm
giác nào chi phối. Biết chúng nhưng không để chúng chi phối tâm mình. Khi
sự chú tâm đã thuần thục thì tâm sẽ trở nên an tịnh. Pháp tu này có
lợi là khi có sự hằng biết, tức là chú tâm một cách liên tục, thì
tâm vẫn giữ được an tịnh ngay trong mọi tư thế như đi, đứng, nằm,
ngồi chứ không phải chỉ an tịnh khi ngồi Thiền, còn khi đi, đứng thì
tâm lại rối bời như trước.
Mục đích của tu Chỉ là đạt được Định. Đại đức
cũng lưu ý những hành giả khi đã đạt được Định trở nên mê mải,
hài lòng và tự mãn với tình trạng đó: "Khi hằng biết về mọi
tác động và hoạt động của mình thì hành giả đạt được tâm an định
và trong sáng. Nhưng cái an định này không phải là mục đích cuối cùng của
việc tu hành. Tình trạng an định giúp cho tâm tạm thời yên tịnh, cũng
như ăn thì tạm thời làm hết cơn đói lúc đó, nhưng không phải chỉ có
thế là đủ. Hành giả cần biết dùng tâm an định đó để nhìn sự vật
dưới một ánh sáng mới, ánh sáng của Trí huệ."
Tu Quán
Khi tâm đã an định thì bỏ sự chú tâm theo dõi hơi thở
và bắt đầu tu quán (vipassana). Quán rõ thân và tâm này chỉ là năm uẩn
(khandhas) tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức hợp thành. Quán rõ các
uẩn đó sinh, trụ và diệt như thế nào và thấy rõ tính cách của chúng
là Vô thường, Khổ và Vô ngã (Anicca, Dukkha, Anatta). Thấy rõ được như vậy
là thấy chân lý về thân và tâm, tức là đạt được trí huệ (wisdom).
Nhiều người có quan niệm không đúng khi cho rằng có Định là đương nhiên
có Huệ. Ngoại đạo hay tà đạo cũng đạt tới mức Định cao nhưng vẫn
không đạt được Huệ. Theo pháp Thiền này, khi biết quán đúng thì hành
giả thấu hiểu được bản chất của tâm, thấy rõ tâm đó vốn thanh tịnh,
chỉ có những cảm giác sướng, khổ nổi lên. Vì vậy như khi hành giả cảm
thấy khổ, thì chỉ cần ghi nhận có giảm giác khổ xẩy ra chứ không đồng
hóa tâm mình với cảm giác đó. Hành giả không còn thấy muốn bám níu
vào cảm giác nào, dù cảm giác sướng cũng vậy.
Chỉ cần ghi biết có một cảm giác hiện ra, biết cảm
giác đó sẽ theo luật vô thường là nó đến rồi sẽ biến đi, đồng hóa
với nó là chuốc lấy khổ, vì vậy chẳng bám mà cũng chẳng cần diệt nó.
Thông thường chúng ta thấy điều nào hay thì giữ lại, nhưng tu Thiền thật
sự là dù điều hay, điều dở cũng bỏ hết. "Cuối cùng thì phải
ném đi hết. Nếu điều nào sai, ném đi; điều nào đúng, cũng ném
luôn." Khi đã đạt Huệ thì thấy rõ tất cả những điều như sướng/khổ,
yêu/ghét, vui/buồn, phải/trái, hơn/thua .... đều chỉ là những cảm giác,
có tính cách Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã nên đều đáng buông xả hết.
Pháp Thiền này là: "Trước hết, biết chú tâm theo
dõi hơi thở là tu Giới (Sila), theo dõi hơi thở cho đến khi tâm định là
tu Định (Samadhi), quán thấy hơi thở có tính cách Vô thường, Khổ và Vô
ngã và không còn tham luyến gì là tu Huệ (Panna)". Tu được Giới,
Định, Huệ là đã tu Bát Chánh Đạo (Eightfold Path), là con đường Giải
thoát. "Người nào tu hành và đạt được chân lý này thì người
đó sẽ thành Phật." Đại đức nói thành "Phật" là thành
"người giác ngộ" (One Who Knows), danh từ này thường được nhắc
nhở nhiều lần.
Đại đức cũng giảng: "Thấy Thiên nhiên (Nature) là
thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Thiên nhiên. Pháp là Thiên nhiên, cho nên
không có gì mà không phải là Pháp." "Tâm là Pháp"
(The mind is Dhamma) Thiên nhiên đây có nghĩa là tất cả các sự vật về vật
chất cũng như về tinh thần. Vì vậy tu hành là biết rõ tâm này, cũng là
biết các Pháp.
Việc tìm tòi, học hỏi kinh điển chỉ là phương tiện để
biết tâm này thôi. Tại mỗi khóa Thiền, đại đức thường yêu cầu các
thiền sinh dẹp bỏ tất cả sách vở, dù là kinh điển, để chỉ chú tâm
vào việc tu tập, quán xét, tìm hiểu tâm mình. Đại đức không bác bỏ
kinh điển, mà chỉ muốn cho chúng ta không nên quá chú tâm vào việc tìm
hiểu kinh điển mà không chú ý tới việc thực nghiệm tu hành. Những điểm
căn bản của giáo lý vẫn thường được đại đức nhắc nhở nhưng không
quá chi tiết về những từ ngữ cao xa, bóng bẩy hay huyền bí. "Sự
hiểu biết do hành Thiền với một tâm an tịnh khác xa với sự hiểu biết
do học hỏi."... "Đừng đọc sách! Hãy đọc ngay tâm mình.
"... "Phật pháp không phải là ở trong sách. Nếu muốn thực sự
thấy lời Phật dạy thì đừng tìm ở trong sách. Hãy quán xét ngay chính
tâm mình. Quán xem các cảm giác đến và đi, các ý nghĩ đến và đi. Đừng
bám níu vào bất cứ cái gì. "
Tuy vậy chúng ta cũng nên nhớ là nếu có may mắn được gặp
những vị thầy chân chánh, như Ajahn Chah, thì việc bớt đọc kinh điển mới
có thể được, còn nếu không được gặp thầy hoặc gặp những thầy tà,
ngoại đạo mà không chịu học tập kinh điển thì không khỏi lầm đường,
lạc lối.
Tóm tắt
"Yếu chỉ của việc tu hành rất là giản dị, không cần
phải giải nghĩa dài dòng. Buông xả mọi điều yêu và ghét, mọi sự vật
thế nào thì chỉ coi chúng như vậy. Đó là tất cả kinh nghiệm của bản
thân tôi. Đừng cố để trở thành một cái gì. Đừng biến đổi mình
thành một cái gì. Đừng coi mình như một người đang hành Thiền. Đừng
muốn trở thành người giác ngộ. Khi ngồi, chỉ biết ngồi, khi đi chỉ
biết đi. Không bám chấp vào bất cứ gì. Không chống chọi lại bất cứ
gì." Lời giảng mới nghe thì thật khó hiểu nhưng đã biểu lộ sự
thâm sâu pháp Thiền của đại đức. Khó hiểu vì người nào khi tu hành cũng
muốn thành công, đạt được mục đích nào đó và cũng hiểu là khi tu
thì phải bỏ những tật xấu, lỗi lầm xưa nay để được cái gì cao
quý hơn. Nhưng theo những lời giảng đó thì đại đức cho rằng tu như vậy
là sai lầm cả sao.
Tuy vậy nếu coi kỹ thì thấy những lời đó không sai lạc
với lời dạy của đức Phật trong kinh 'Bốn mươi hai chương': "Cúng
một trăm người thiện không bằng cúng một người trì năm giới. .... Cúng
một trăm triệu đức Phật, không bằng cúng một vị vô niệm, vô trụ,
không tu, không chứng."(Chương 11) 'Không tu' là không thấy có gì để
mình trở thành, 'không chứng' là không thấy có gì để chứng. Kinh Pháp
Hoa, thuộc Đại thừa, chỉ rõ tất cả chúng sinh đều sẵn có Tri kiến
Phật, tức Phật tánh, không phải là tu hành rồi mới có. Mà nói sẵn có
thì đâu có phải khi tu là được, là đắc gì. Nhưng hiểu như thế thì
những người không tu hành hoặc lười biếng tu hành có cớ vin vào đó để
không tu thì thật là hết sức sai lầm. Những lời nói cao xa đó thật ra
là dành cho những người đã tu hành tới mức cao mà tự mãn cho như thế
là mình đã chứng đắc rồi. Còn thấy có "mình" tức còn chấp
Ngã, thấy có "chứng đắc" tức còn chấp Pháp, như vậy chưa thể
nói là tới chỗ cứu cánh được. Chúng ta chưa đạt được tới mức đó
thì chỉ nên biết con đường sẽ tới là như vậy, nhưng nay thì phải tiếp
tục tu từng bước một.
Trích vài bài pháp ngắn của Ajahn Chah:
---- Dù chúng ta cảm nhận thế nào về đời sống của chúng
ta, thì cũng đừng tìm cách thay đổi sự vật. Thay vào đó, chúng ta chỉ
quán xét và biết chúng như vậy. Khi có Khổ mà biết đó là Khổ thì cũng
thấy con đường thoát Khổ. Tất cả các pháp Thiền đều có giá trị là
phát triển sự hằng biết (mindfulness). Điều cần thiết là dùng sự hằng
biết để thấy được chân lý ẩn kín. Với sự hằng biết đó chúng ta
theo dõi các ham muốn, thích và ghét, hạnh phúc và đau khổ, khi chúng hiện
ra trong tâm. Thấy được chúng Vô thường, Khổ và Vô ngã, chúng ta buông
xả chúng. Như vậy, trí huệ sẽ thay thế vô minh, trí biết sẽ thay thế
nghi hoặc.
---- Khi đang ngồi Thiền mà tâm bị xao lãng thì ngừng lại
và chú tâm trở lại. Lúc đầu, khi muốn chú tâm vào một chỗ thì tâm lại
kéo mình đi nơi khác. Nhưng đừng kềm chúng hoặc bực bội về chúng. Chỉ
cần ghi biết thôi và để mặc vậy. Tiếp tục như vậy. Samadhi (tâm định)
sẽ tự nó đến. Khi tiếp tục tu tập thì có lúc thấy hơi thở như ngừng
lại, nhưng đừng có sợ hãi, đó chỉ là cảm nhận ngừng lại.
---- Trong lúc ngồi Thiền có khi thấy những hiện tượng
khác thường hoặc những hình ảnh lạ lùng -- gọi là Nimitta (tướng) --
như thấy hào quang, thiên thần hoặc Phật hiện ra. Khi thấy vậy thì quay
lại nhận xét tình trạng tâm mình lúc đó ra sao. Đừng nên quên điểm chánh
này. Hết sức chú ý. Đừng mong muốn những hình ảnh đó hiện ra hoặc
không hiện ra nữa. Quán xét những hình ảnh đó, đừng để chúng lôi
kéo đi. Coi chúng không phải là tâm mình, chúng cũng chỉ có tính cách vô
thường, khổ và vô ngã. Đừng coi chúng quá quan trọng. Nếu chúng không
biến đi thì tiếp tục chú ý vào hơi thở. Tất cả chỉ là ảo ảnh, do
tâm tạo ra, khiến mình ưa thích, bám níu hoặc sợ sệt.
---- Nhiều khi mình muốn bắt cái tâm phải yên lặng, và
chính sự cố gắng đó lại làm cho tâm rối loạn thêm. Chúng ta cần tập
để buông xả tất cả lòng ham muốn, dù là ham muốn giác ngộ. Có như vậy
chúng ta mới được giải thoát.
---- Chúng ta không thể mong có được tâm an tĩnh ngay khi mới
khởi công hành Thiền. Chúng ta phải để cho tâm tự do nghĩ ngợi, mặc nó
hoạt động theo đặc tính của nó, chỉ cần quan sát nó và không phản
ứng theo nó.
---- Theo như tôi thấy, tâm như là một điểm, trung tâm của vũ trụ, còn
những trạng thái của tâm thì như những người khách tới ở đó trong một
thời gian ngắn hoặc dài. Cần tìm hiểu những người khách đó cho kỹ.
Làm quen với những hình ảnh họ gợi ra, những câu chuyện họ bày ra để
lôi kéo mình theo họ. Nhưng đừng rời khỏi cái ghế mình đang ngồi, chỉ
có một cái ghế thôi. Nếu mình tiếp tục ngồi chắc chắn và không rời
ghế, để tiếp đón những người khách đó khi họ đến, mà vẫn giữ vững
sự thấy biết để đổi tâm mình thành 'Người giác ngộ', người tỉnh
giác, thì những người khách đó sẽ không còn tới nữa. (Đoạn này có
thể được so sánh với kinh Lăng Nghiêm: khi đức Phật có đặt vấn đề
là chúng sanh "không thành đạo Bồ Đề là do những phiền não khách
trần mê hoặc" thì làm thế nào được khai ngộ, thì ông Kiều Trần
Như trả lời "do con ngộ được hai chữ khách trần mà thành chánh quả"
(đoạn VII). Việc phân biệt được chủ và khách là điều quan trọng
trong việc tu hành. Những người khách họ đến rồi họ đi đó là việc
tự nhiên không thể tránh được, chỉ cần mình không để họ làm chủ,
chi phối, lôi kéo mình theo là đủ).
Tài liệu trích dẫn:
-- Bodhinyana, A collection of Dhamma Talks by the
Venerable Ajahn Chah (Phra Bodhinyana Thera), Wat Pah Pong xuất bản.
-- A Taste of Freedom, Selected Dhamma Talks by Ven. Ajahn
Chah of Wat Pah Pong
-- A Still Forest Pool, The Insight Meditation of Achaan
Chah, của Jack Kornfield và Paul Breiter.
-- Living Buddhist Masters, của Jack Kornfied
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/011-chah.htm |
|