- Nhà Khoa Học Albert
Einstein và Đạo Phật
- Thích Nguyên Tạng
Gần đây có
nhiều độc giả thắc mắc về mối liên hệ giữa nhà khoa học thiên tài
Albert Einstein (1879-1955) và Đạo Phật như thế nào? Vì họ thấy đây đó
có nhiều trích dẫn lời phát biểu của ông về Đạo Phật. Bài viết sau
đây sẽ đề cập đến mối liên hệ ấy. Dù chưa đầy đủ lắm, nhưng
hy vọng rằng nó sẽ là mấu chốt để chúng ta phăng tìm những tư liệu
chi tiết về sau.
Ông Albert
Einstein, sinh ngày 14 tháng 03 năm 1879 tại thành phố Ulm, Đức quốc, trong một
gia đình làm nghề thủ công và tiểu thương. Bố là một người giỏi về
hóa học và mẹ là người có khiếu về âm nhạc. Năm 1894, gia đình ông
di cư sang sống tại Ý. Ông được bố gởi đi học ở Thụy Sĩ và đã tốt
nghiệp tiến sĩ triết học tại Đại học Zurich. Sau khi ra trường, ông
được mời dạy toán và vật lý tại một trường bách khoa ở Thụy Sĩ,
ngoài việc dạy học, ông dành hết thời gian còn lại để nghiên cứu vật
lý học và ông còn làm việc tại văn phòng thẩm tra cấp bằng sáng chế
ở Berne, Thụy Sĩ. Năm 1905, ông gởi đăng bài "Lý thuyết tương đối
hẹp" dài 5 trang trên tờ Physics. Bài báo nhanh chóng được chú ý
và nó là tiếng nổ lớn của ngành khoa học về không gian và thời gian,
ông đã phá vỡ các khái niệm tuyệt đối về không gian và thời gian của
nhà vật lý học và toán học vĩ đại, Issaac Newton (1642-1727). Lập tức tên
tuổi của ông được nhiều người biết tới và được xem là một khoa học
gia nổi tiếng nhất vào thời điểm ấy.
Năm 1911, Ông là giáo sư vật lý
ở Prague. Năm 1913, ông được mời làm giám đốc Học Viện Vật Lý
Hoàng Đế Wilhelm tại Berlin. Đến năm 1921, ông được trao giải thưởng
Nobel về Vật lý học qua đề án nghiên cứu "Lý Thuyết Tương đối"
(The Theory of Relativity). Trong thế chiến thứ nhất (1914-1918), ông từng bị
tống giam vì tội "chống chiến tranh và ủng hộ hòa bình".
Sau khi Adolf Hitler (1889-1945) trở thành quốc trưởng của Đức, ông ra sức
chống lại chủ nghĩa phát xít và rời bỏ nước Đức sang sống tại Hoa
Kỳ. Từ năm 1933 đến năm 1945, ông là giáo sư toán và lý tại Viện Cao học
Princeton ở bang New Jersey. Phát xuất từ lòng căm thù chủ nghĩa phát xít
mà ông đã giúp cho Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt (1882-1945) chế tạo bom
nguyên tử và cuối cùng bị xem là "cha đẻ" của thứ vũ khí giết
người này. Đây cũng là lý do mà về sau năm 1950, ông thành lập Viện
Kiểm Soát Nguyên tử Quốc tế tại Hoa Kỳ.
Ba thập niên cuối đời mình, ông
dành thời gian để nghiên cứu về "Lý thuyết thống nhất giữa lực
hấp dẫn và hiện tượng điện quang" (The Theory of unify gravitation
and eletro-magnetism).
Mặc dù bận rộn nghiên cứu và giảng
dạy khoa học, nhưng ông Einstein vẫn dành thời gian nhất định để nghiên
cứu triết học và tôn giáo, đặc biệt trong đó có Đạo Phật.
Theo tài liệu "The World As I See It" (Trần thế khi tôi nhìn
thấy no鬠nhà xb Philosophical Library, New
York, 1949) và quyển "Ideas and Opinions" (Những Ý Kiến và Những
Quan Điểm, nhà xb Crown, NY, 1945) là hai tuyển tập những bài báo, bài
tham luận về tôn giáo và khoa học mà ông Einstein viết từ đầu những
năm ba mươi. Đáng chú ý trong tập này là các bài như "Religion and
Science" (Tôn giáo và Khoa học), viết từ 1930 ; bài "Science,
Philosophy & Religion, A Sumposium" (Khoa học, Triết học và Tôn
giáo, một buổi hội thảo) viết năm 1941 ; bài "Religion and Science:
Irreconcilable ?" (Tôn giáo và Khoa học: không thể hòa giải được
sao ?) viết vào năm 1948.
Theo các tài liệu trên thì chính A.
Einstein tự xem mình là một người thuộc về tôn giáo. Tôn giáo của ông
được người ta biết qua lý thuyết khoa học của ông. Ông bác bỏ sự thần
thánh hóa trong tôn giáo, ông quan tâm đến đời sống con người ở hiện
tại và ngay cả sau khi chết. Trong các buổi hội thảo về triết học và
tôn giáo, có lúc ông trích dẫn lời của Chúa, rồi có khi ông dẫn lời
trong kinh Phật. Quan điểm của ông về tôn giáo chưa bao giờ có hệ thống
và nhất quán. Tuy nhiên, với trí tuệ sắc bén và lòng ngưỡng mộ của
ông đối với các tôn giáo đã giúp cho ông hiểu đúng và chính xác về
các tôn giáo mà ông để tâm nghiên cứu. Ông vẫn thường nhắc nhở các
nhà khoa học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung cho những khiếm
khuyết của khoa học. Ông nói : "Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập
khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng" (Science without
religion is lame. Reigion without science is blind).
Cũng theo các tài liệu trên cho thấy,
ông đã nghiên cứu Đạo Phật qua các sách báo của các học giả Phật học
của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer
Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn
lâm người Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)... là những nhà Phật học nổi danh
ở phương Tây. Nhờ nghiên cứu như vậy mà A. Einstein đã nhìn thấy Đạo
Phật như là một triết lý phương Đông cực kỳ sống động và triết
lý ấy đã đi vào cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình, ngỏ hầu
cắt ngang sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín, cuồng tín và kém văn minh của
thời đại. Đạo Phật đã đem lại cho con người một cái nhìn mới, một
lối sống mới, một sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh sáng trong
không gian, chan hòa với nhau như nước với sữa. Chính vì thấy rõ cái độc
đáo đó mà ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn
giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần
linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện
tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát
xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể
đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó"
(The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and
avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based
on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as
a meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng thời, một lần khác
ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu
với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật
giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những
khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm
của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng
như vượt qua khoa học" (If there is any religion that would cope with
modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up
to date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science,
because it embrances science as well as goes beyond science).
(Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from Albert Einstein.
http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm).
Dù những lý thuyết khoa học của
ông rất phức tạp và khó hiểu, nhưng tấm lòng nhân đạo và mến chuộng
hòa bình của ông đã khiến cho mọi người cảm thấy gần gũi với ông.
Ông đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực của mình
đối với sự phát triển khoa học
của nhân loại. Ông làm việc không biết mệt mỏi cho đến ngày qua đời.
Ông mất vào lúc 1giờ 25 phút rạng sáng ngày 19 tháng 04 năm 1955 tại
Princeton, Hoa Kỳ, hưởng thọ 76 tuổi. Ngày nay, đối với mọi tín đồ Phật
Giáo trên khắp năm châu đều thành kính khi nhắc đến tên tuổi của
ông, người đã từng góp phần khẳng định lại giá trị vĩnh cửu đối
với Giáo lý của Đạo Phật.
Tổng hợp tài liệu
theo :
- THE WORLD I SEE IT (Giáo sư Robert
Topmiller tại đại học Kentucky, USA tháng 11/1997)
- ALBERT EINSTEIN, A Biography/F. Albrecht/
Viking/USA/1997
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/013-albert.htm