Hòa thượng Narada (Narada Maha Thera)
có thế danh là Sumanapala. Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại
ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka). Ngài xuất
thân từ một gia đình trung lưu trí thức, và được gửi đi học cấp tiểu
học và trung học của nhà dòng La-san đạo Ca-tô. Dù rằng ngài đã được
đào tạo trong môi trường đạo Thiên Chúa, ngài lúc nào cũng hâm mộ đạo
Phật và học tập Phật Pháp từ một người chú, và ngài học thêm tiếng
Sanskrit từ Hòa thượng Palita và tham dự nhiều khóa giáo lý vào các ngày
cuối tuần tại chùa Paramananda trong vùng.
Năm 18 tuổi ngài quyết định xuất gia, thọ giới Sa-di, vị
thầy bổn sư là Hòa thượng Vajiranana, một vị danh tăng vào thời đó. Thầy
truyền giới là Hòa thượng Revata, và thầy truyền pháp là Tỳ kheo Pelene.
Sau đó, ngài theo học các khóa Vi Diệu Pháp và Ngữ học Đông phương.
Sai-di Narada thọ giới cụ túc (tỳ kheo) vào năm lên 20 tuổi. Ngài được
gửi đi học các khóa Đạo đức học và Triết học tại Đại học Tích
Lan (Ceylon University College), với nhiều giáo sư danh tiếng như Đại đức
Sumangala, Tiến sĩ Chandrasena, và Bác sĩ Pereira (về sau xuất gia, và trở
thành Đại đức Kassapa rất nổi tiếng).
Năm 30 tuổi, ngài được cử đi tham dự lễ khánh thành
chùa Mulagandhakuti tại Saranath (Xa-nặc), Benares (Ba-na-lại), Ấn Độ, và
tham gia các công tác hoằng pháp tại đó. Trong thời gian này, ngài có dịp
công tác với ông Jawaharial Nehru mà về sau trở thành vị thủ tướng đầu
tiên của Ấn Độ.
Ít lâu sau ngài được cử đi truyền giáo tại Trung Quốc
và các nước Đông Nam Á -- Cam Bốt, Lào, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai. Tại
những nơi này, ngài thường được tiếp đón rất nồng hậu. Quốc vương
Cam Bốt tôn vinh ngài là Đức Đại Tôn Giả (Sri Maha Sadhu).
Ngoài ra ngài còn có nhiều chuyến đi truyền đạo tại các nước Tây phương.
Năm 1955, ngài sang Úc, và giúp tổ chức các hội Phật Giáo địa phương tại
các bang New South Wales, Victoria, Tasmania và Queensland. Năm 1956, ngài du hành
sang Anh quốc, tổ chức cử hành lễ Tưởng Niệm 2.500 năm sau ngày Đại Bát
Niết Bàn của Đức Phật. Sau đó ngài giúp củng cố Phật sự và xây dựng
ngôi chùa danh tiếng mang tên Chùa Phật Giáo Luân Đôn (London Buddhist
Vihara). Ngài sang Hoa Kỳ hoằng pháp, và được cung thỉnh thuyết giảng về
đề tài "Đức Phật và Triết lý đạo Phật" tại đài kỷ niệm
Washington (Washington Memorial) trước một cử tọa rất đông đảo. Ngài là
một sứ giả Như Lai rất hăng hái và nhiệt tình, thu hút được nhiều
người nghe, và lúc nào cũng khuyến khích thành lập các hội Phật Giáo để
bồi đắp công trình hoằng dương đạo pháp.
Ngài có nhiều gắn bó với đất nước và Phật tử Việt
Nam. Ngài đã từng đến Việt Nam vào đầu thập niên 1930, mang theo nhiều
nhánh cây bồ đề để trồng tại nhiều nơi trong nước: Phú Lâm (Chợ Lớn),
Cần Thơ, Châu Đốc, Vĩnh Long ở miền Tây Nam bộ, Biên Hòa, Phước Tuy,
Vũng Tàu ở miền Đông Nam bộ, ra đến miền Trung (Đà Lạt, Huế) và miền
Bắc (Vinh, Hà Nội). Trong thập niên 1950, khi Giáo hội Tăng già Nguyên thủy
Việt Nam được thành lập, ngài đến Việt Nam nhiều lần để thuyết pháp,
hằng tuần tại chùa Kỳ Viên (Quận Ba, Sài Gòn) thu hút đông đảo Phật
Tử đến nghe, và có rất nhiều người đến xin quy y với ngài. Đặc biệt
là vào năm 1963, ngài đã khuyến khích ủng hộ công tác xây cất bảo
tháp Thích Ca Phật Đài tại Vũng Tàu, ngày nay đã được xem như một di tích
lịch sử. Ngoài ra, ngài còn giúp xây dựng một bảo tháp khác ở Vĩnh
Long.
Ngoài các thời thuyết pháp và công tác tổ chức Phật sự,
ngài còn hướng dẫn các lớp Vi Diệu Pháp và các khóa hành thiền, khuyến
khích việc phiên dịch các sách Phật Pháp sang Việt ngữ để truyền bá rộng
rãi. Các tập sách nhỏ sau đây đã được chuyển dịch:
- Hạnh Phúc Gia Đình (Parents and Children),
- Phật Giáo - Di Sản Tinh Thần của Dân Tộc Việt Nam (Buddhism - Heritage of
Vietnam),
- Phật Giáo Tóm Lược (Buddhism in a Nutshell),
- Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma Vihara),
- Những Vấn Đề của Kiếp Nhân Sinh (The Problems of Life),
- Những Bước Thăng Trầm (The Eight Worldly Conditions),
- Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta),
- Kinh Pháp Cú (The Dhammapada)
v.v.
Đặc biệt nhất là quyển "Đức Phật và Phật
Pháp" (The Buddha and His Teachings) đã được xuất bản tại Sài Gòn bằng
hai thứ tiếng: Anh và Việt. Bản Việt ngữ do ông Phạm Kim Khánh chuyển dịch,
và 4.000 quyển đầu tiên được in ra vào năm 1970, và sau đó một năm, lại
được tái bản thêm 4.000 quyển. Sau đó, quyển này đã được in lại rất
nhiều lần, trong nước cũng như tại hải ngoại, và đã được xem như là
một trong những tài liệu căn bản quan trọng trong các khóa Phật học. Gần
đây (1999), ông Khánh đã hiệu đính lại bản dịch đó, dựa theo ấn bản
Anh ngữ cuối cùng trước khi ngài viên tịch.
Ngài viên tịch vào ngày Chủ Nhật 2 tháng 10, 1983, hưởng
thọ 85 tuổi, tại chùa Vajirarama nơi ngài làm Tăng trưởng Chưởng quản
trong những năm cuối của đời ngài. Tang lễ được chính phủ và Phật tử
Tích Lan cử hành trọng thể như là một quốc táng.
Theo lời của ông Phạm Kim Khánh, "...Phần đóng góp của ngài vào
công trình hoằng dương giáo pháp thật mênh mông rộng lớn. Ngài là một
vị cao tăng nổi tiếng là một nhà truyền giáo lỗi lạc, một giảng sư
có tài diễn giải những điểm thâm sâu của Phật Giáo một cách giản dị
và rõ ràng. Ngài làm việc không biết mệt để rải khắp mọi nơi bức
thông điệp hòa bình đượm nhuần từ bi và trí tuệ của Đức Bổn Sư.
Ngài cũng là tác giả của nhiều quyển sách Phật Giáo đã được truyền
bá rộng rãi khắp thế giới." Và ông Premadasa, thủ tướng Tích Lan năm
1979, kết luận: "...Ngài đã dành trọn cuộc đời mình -- qua một
cách vị tha bất cầu lợi -- để phụng sự cho hòa bình trên thế giới
và đem lại hạnh phúc an lành cho nhân loại."