...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Huệ Năng Lục Tổ
- Chánh Hạnh
Tiểu sử:
Ngài Huệ Năng sanh giờ Tý ngày mồng 8
tháng 2 năm Mậu Tuất (638) tại Tân Châu, xứ Lãnh Nam. Khi Ngài mới sanh,
có hai nhà sư đến nhà đặt tên cho Ngài là Huệ Năng. Thân phụ Ngài hỏi
vì sao đặt là Huệ Năng? Nhà sư đáp: "Huệ nghĩa là đem Pháp làm ơn
bố thí cho chúng sanh, Năng là nghĩa làm nỗi được việc Phật". Như
vậy họ tên Ngài là Lư Huệ Năng. Thân phụ Ngài là Lư Hành Thao, nguyên
quán ở đất Phạm Dương làm quan bị giáng chức, lưu ra xứ Lãnh Nam làm
thường dân, mẹ Ngài họ Lý. Cha mất sớm, mẹ già, thân côi cút dời qua
xứ Nam Hải, cảnh đắng cay, nghèo thiếu phải bán củi ở chợ để nuôi
mẹ.
Năm 24 tuổi ( 661) một hôm đem giao củi
xong, nghe người ta tụng kinh Kim Cang, Ngài khai ngộ, hỏi người tụng kinh
tu ở đâu, người ấy cho biết đã tu học với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tại
chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, xứ Kỳ Châu. Có một người khách cho
10 lạng bạc, bảo dùng tiền ấy xếp đặt việc ăn ở cho mẹ già, rồi
tới huyện Hoàng Mai tham lễ Ngũ Tổ.
Sau khi an bề ăn ở của mẹ già, Ngài Huệ
Năng đi không quá ba mươi ngày, đến nơi ra mắt Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi:
" Người từ đâu lại, muốn cầu chi ?". Ngài Huệ Năng đáp
:" Đệ tử là dân thường xứ Lãnh Nam, từ xa lại đây lễ Thầy, chỉ
cầu làm Phật, không cầu chi khác ! "
Ngũ Tổ nói: " Người Lãnh Nam là giống
muông mọi làm sao làm Phật được?". Huệ Năng đáp:" Người ta
tuy có Bắc, Nam chớ Phật tánh vốn không Nam Bắc, thân muông mọi với
thân Hòa Thượng chẳng đồng, chớ Phật tánh có chi là khác biệt ?"
Ngũ Tổ còn muốn nói nữa nhưng thấy môn
đồ vây quanh, bèn sai đi làm phận sự. Ngài Huệ Năng thưa thêm: " Kẻ
đệ tử nầy trong tâm thường sanh trí tuệ, chẳng rời khỏi tự tánh, tức
là phước điền rồi, chưa hay Hòa Thượng dạy làm việc chi ? ". Ngũ
Tổ nói: " Chà quân mang mọi nầy căn tánh nhậm lẹ, thôi đừng nói nữa,
hãy đi xuống tào ngựa đi ."
Huệ Năng lui xuống nhà sau, có người
sai Huệ Năng bửa củi, giã gạo trải qua tám tháng có hơn, một ngày kia
Ngũ Tổ xảy thấy Huệ Năng, ngài bảo rằng: " Ta thấy ý kiến nhà ngươi
có thể dùng, nhưng sợ e kẻ khác làm hại cho nên chẳng nói với ngươi,
ngươi biết chăng ?" Ngài Huệ Năng đáp: "Đệ tử cũng biết ý Thầy
cho nên chẳng dám đi ra phía trước đặng cho người ta chẳng hay biết."
Một ngày kia Tổ Kêu các môn đồ lại và
dạy rằng: " Người trong đời sanh tử là việc lớn, các ngươi cứ
lo làm việc phước mà chẳng cầu ra khỏi sanh tử. Cái tánh của mình nếu
còn mê cái phước làm sao cứu đặng ra khỏi luân hồi. Các ngươi hãy lui
ra, tự xét cái trí huệ, lấy tánh Bát Nhả nơi tâm mình, mỗi người làm
một bài kệ, đem lại trình ta coi. Nếu ai ngộ được đại ý, thì ta sẽ
trao Áo và Pháp cho đặng làm tổ thứ sáu. Đi mau đi, cần phải nóng như
lửa, chẳng đặng chậm trễ. Nếu còn phải suy nghĩ thì chẳng dùng được.
Người nào thấy đặng Tánh, coi trong lời lẽ sẽ thấy ngay. Người như vậy
như bậc tướng tài quơ đao xông ra trận, thấy thì biết liền."
Mọi người lui ra, bàn tán và thấy chỉ
có Thần Tú đang làm giáo thọ là đáng bực được truyền y bát kế thừa
Tổ, cho nên mọi người ngầm ý để cho Thần Tú làm kệ. Thần Tú lại
nghĩ mình làm kệ với dụng tâm được truyền y bát, kiếm ngôi Tổ thì
là xấu mà chẳng làm thì phụ ý thầy.
Phía trước giảng đuờng của Ngũ Tổ,
có ba gian mái hiên, ngài định nhờ quan Cung Phụng Lư Trân vẻ biến tướng
kinh Lăng Già và chơn dung năm vị tổ từ Đạt Ma sơ tổ đến Ngũ Tổ đặng
lưu truyền. Còn Thần Tú làm xong bài kệ mấy lần muốn trình Thầy mà
còn ngại, sau bốn ngày với 13 lần muốn trình kệ chẳng đặng, Thần Tú
bèn có ý viết bài kệ vào vách của mái hiên, nếu Ngũ Tổ thấy, cho là
được thì Thần Tú nhận của mình, còn nếu Tổ chê thì Thần Tú sẽ
vào núi sâu mai danh ẩn tích.
Vào canh ba đêm kia, Thần Tú viết bài kệ
vô vách phía Nam, trình ý kiến từ trong tâm mình:
Thân thị bồ đề
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai
Nghĩa:
Thân là cây Bồ Đề
Tâm như cái gương tỏ
Thường khi lo phủi chùi
Đừng để đóng bụi lọ.
Trời sáng Ngũ Tổ mời quan Cung Phụng họ
Lư tới vách tường phía Nam để vẽ, xảy thấy bài kệ, Tổ nói với
quan Cung Phụng: " Quan Cung Phụng chẳng cần vẽ nữa. Làm nhọc Ngài từ
xa lại đây nhưng kinh có dạy rằng :" Hể cái gì có hình tướng, đều
là hư vọng" Chỉ lưu bài kệ nầy cho người ta tụng trì, y theo bài kệ
nầy mà tu, khỏi đọa nẻo ác, y theo bài kệ nầy mà tu, có lợi ích lớn."
Ngũ Tổ liền sai đồ đệ đốt hương,
lể kính rồi tụng bài kệ ấy, tức sẽ thấy Tánh. Các đệ tử tụng kệ,
đều khen hay.
Tới canh ba đêm ấy, Tổ kêu Thần Tú
vào chánh đường hỏi có phải bài kệ của Thần Tú không? Thần Tú nhận
là của mình làm, chẳng phải cầu được làm tổ mà chỉ mong Ngũ Tổ xem
xét định giá về trí tuệ của mình.
Tổ dạy rằng, Thần Tú làm bài kệ ấy,
thật chưa thấy Tánh, chỉ tới ngoài ngõ chưa vô trong cửa. Theo như chỗ
thấy và chỗ hiểu ấy mà cầu đạo vô thượng thì chẳng đặng. Ngài dạy
Thần Tú thêm, đạo vô thượng vốn tự bổn tâm, thấy tự bổn tánh chẳng
sanh, chẳng diệt, không trệ, tự nhiên như nhiên. Cái tâm như nhiên là chơn
thật. Nếu chỗ thấy như vậy là tánh tự nhiên của Đạo Vô Thượng.
Ngũ Tổ bảo Thần Tú hãy lui ra suy nghĩ trong đôi ngày để làm kệ khác
trình lại, nếu được nhập môn Tổ sẽ truyền trao y, bát. Thần Tú lễ
Tổ lui ra, qua vài ngày vẫn không làm được bài kệ, đi đứng chẳng yên,
tinh thần không được vui vẻ.
Lại hai ngày sau, có một chú tiểu đi
ngang qua chỗ Huệ Năng giã gạo, xướng tụng bài kệ ấy, Ngài Huệ Năng
nghe qua một lần liền biết chưa thấy bổn tánh, tuy chưa được đội ơn
thọ lấy giáo pháp, nhưng đã sớm biết đại ý. Bèn hỏi chú tiểu:
" Kệ gì chú tụng vậy ?"
Chú tiểu nói: " Cái anh xứ muông mọi
chẳng hiểu gì cả. Đại Sư ngài đã nói: Người trong đời, sanh tử là
việc lớn, Ngài muốn giao truyền Y, Pháp các môn đồ làm kệ đem trình, nếu
ai ngộ được đại ý, thì Ngài giao áo và Pháp để làm tổ thứ sáu. Thượng
Toạ Thần Tú đã viết nơi vách ở phía Nam bài kệ Vô tướng. Đại Sư
khiến mọi người đều tụng, theo kệ mà tu khỏi đọa nẻo ác, có lợi
ích lớn." Ngài Huệ Năng nói: " Thượng nhơn ơi ! Tôi cũng muốn tụng
bài kệ đó, để kết mối duyên sau. Tôi đã giã gạo hơn tám tháng dư,
chưa từng đến phía trước, mong người hãy dẫn đến trước bài kệ, để
tôi lễ bái."
Chú tiểu liền làm theo lời yêu cầu. Đến
nơi, Ngài Huệ Năng nói: " Tôi không biết chữ, xin ngài hãy vì tôi đọc
cho." Lúc ấy có quan Biệt giá Giang Châu Trương Nhật Dụng liền cao giọng
đọc. Ngài Huệ Năng nghe xong liền nói: " Tôi cũng có một bài kệ,
cúi mong quan Biệt Giá viết dùm." Biệt Giá nói: " Anh cũng làm kệ,
việc thật ít có." Ngài Huệ Năng quay qua quan Biệt Giá nói: " Muốn
học đạo vô thượng không nên khinh người mới học. Hạng dưới đôi
khi có trí hơn bậc trên cùng. Bậc trên cùng cũng có khi trí kém. Nếu
khinh người thì có vô lượng vô biên tội."
Quan Biệt Giá nói: " Anh hãy tụng kệ,
tôi viết cho. Nếu anh đắc pháp xin đừng quên độ tôi trước hết nghe
!"
Ngài Huệ Năng nói kệ :
Bồ Đề bổn vô thọ
Minh Kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhạ trần ai
Nghĩa là:
Vốn không cây Bồ Đề
Cũng chẳng đài gương tỏ
Vốn không có vật gì.
Chổ nào đóng bụi lọ.
Bài kệ viết xong, môn đồ đều sợ, không
ai chẳng khen và nghi hoặc, họ nói: " Kỳ thay, không thể lấy tướng
mạo mà định người. Tại sao lại có thể sai khiến vị Bồ tát xác thịt
nầy!?" Tổ thấy mọi người kinh ngac, sợ người ta làm hại, bèn lấy
dép bôi bài kệ đi và nói: " Cũng chưa thấy Tánh ". Môn đồ nghe
theo lời Ngũ Tổ, cho là như thế.
Hôm sau, Tổ lựa lúc không có người, tới
chỗ giã gạo, thấy Huệ Năng vì ốm yếu, phải đeo đá để đứng trên
chày giã gạo, Ngài nói: " Người cầu Đạo vì Pháp mà quên mình đến
thế sao?!" Rồi Tổ hỏi: " Gạo giã đã trắng chưa ?" Huệ
Năng bạch rằng: " Gạo giã đã trắng lâu rồi, chỉ còn thiếu cái
sàng ở đây ". Tổ lấy gậy đánh xuống cối 3 cái, rồi bỏ đi, Huệ
Năng hiểu được ý Ngũ Tổ.
Nửa đêm hôm ấy, Ngài Huệ Năng lén
vào thất của Ngũ Tổ, Tổ lấy áo cà sa che vây quanh, cho người ngoài chẳng
thấy rồi Tổ giảng kinh Kim Cang, đến câu : " Nên không trụ vào đâu
mà sanh ra tâm của mình " Huệ Năng nghe qua, đại ngộ được lẽ: Hết
thảy muôn pháp đều chẳng rời khỏi tính tự nhiên, bèn bạch với Tổ:
" Dè đâu tánh tự nhiên vốn tự thanh tịnh, dè đâu tánh tự nhiên vốn
chẳng sanh diệt, dè đâu tánh tự nhiên vốn nó đầy đ?, dè đâu tánh tự
nhiên vốn không lay động, dè đâu tánh tự nhiên thường sanh muôn pháp.
"
Tổ biết Huệ Năng đã ngộ về bổn
tánh nên bảo thêm: " Kẻ nào chẳng biết bổn tâm thì học đạo vô
ích. Nếu ai biết bổn tâm tự nhiên, thấy bổn tánh tự nhiên, tức thị
kêu là bực trượng phu là Thầy của Trời, người là Phật."
Tổ truyền giáo pháp và Y, Bát mọi người
chẳng hay. Tổ dạy rằng: " Nhà ngươi làm tổ đời thứ sáu khéo hộ
niệm lấy mình, hãy độ rộng chúng sinh, lưu truyền đạo lý cho đời
sau, đừng để cho dứt đứt. "
Rồi Ngũ Tổ đọc một bài kệ:
Hữu tình lai há chủng
Nhơn địa quả hoàn sanh
Vô tình diệc vô chủng
Vô tánh diệc vô sanh.
Nghĩa là:
Có tình lại gieo giống
Nhơn đất quả lần sanh
Không tình cũng không giống
Không tánh cũng không sanh.
Ngũ Tổ lại nói: " Thuở xưa Tổ Đạt
Ma lại đất này người ta chưa tin, cho nên truyền Áo nầy đặng làm thể
tin, đời nầy truyền nối qua đời kia. Còn Pháp thì lấy tâm truyền tâm,
đều khiến cho ngộ lấy, hiểu lấy. Từ xưa chư Phật chỉ truyền cho
nhau cái bổn thể, các Sư trao ngầm cho nhau cái bổn tâm. Chớ Áo là mối
tranh, thôi nhà ngươi đừng truyền. Vì nếu truyền Áo nầy thì mạng nguy
như sợi tơ treo vậy. Nhà ngươi nên đi mau kẻo e người ta làm hại.
"
Huệ Năng hỏi : " nên đi về đâu ?
" Tổ dạy: " Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn."
Huệ Năng lãnh Áo, Bát rồi nhưng chẳng
biết đường ra bờ sông, Tổ dạy là để Tổ đưa đi.
Ngũ Tổ đưa thẳng tới trạm Cửu Giang,
rồi bảo Huệ Năng lên thuyền, còn Ngài cầm mái chèo. Huệ Năng bạch:
" Xin Hòa Thượng ngồi để đệ tử chèo mới phải." Tổ nói:
" Lẽ thì ta độ cho nhà ngươi." Ngài Huệ Năng tiếp: " Lúc
mê thì thầy độ cho, khi tỉnh thì độ lấy mình. Độ tuy là một tiếng,
mà chỗ dùng thì chẳng đồng nhau. Huệ Năng nầy sanh tại chốn biên
thùy, giọng nói chẳng được đúng, được thầy truyền Pháp, nay đã đắc
ngộ rồi, chỉ nên do tánh mình mà độ lấy mình thôi ".
Tổ nói: " Phải vậy, phải vậy...
Phật pháp từ đây do nhà ngươi thi hành cho lớn ra, nhà ngươi đi rồi ba
năm, ta sẽ qua đời. Nay nhà ngươi đi cho may mắn, rán sức đi về phương
Nam, chẳng nên vội nói sớm, pháp Phật khó khởi ".
Huệ Năng được Tổ truyền Y, Bát vào năm
Tân Dậu ( 661 ), từ biệt Tổ đi về phía Nam, trong hai tháng tới núi Đại
Sưu. Phía sau có vài trăm người rượt tới để đoạt Áo và Bát. Trong bọn
có Trần Huệ Minh, vốn là võ quan tứ phẩm đi tu nên tánh thô tục. Huệ
Minh là người đứng đ?u trong bọn người tìm kiếm Ngài Huệ Năng, khi Huệ
Minh theo kịp, Huệ Năng để Y, Bát xuống hòn đá mà nói rằng: " Áo nầy
chỉ để làm dấu tin, há nên tranh giành quá sao ? " Rồi Ngài Huệ Năng
ẩn trong bụi cỏ rậm. Huệ Minh rượt tới muốn lượm lấy Y, Bát nhưng
không cử động được. Bèn la lên: " Hành giả ôi! Tôi vì Pháp mà lại
chớ chẳng phải vì Áo mà lại đâu."
Nghe thấy vậy, Ngài Huệ Năng bèn rời
chỗ nấp, ra ngồi xếp bằng tại trên hòn đá. Huệ Minh làm lễ và thưa
rằng: " Mong rằng hành giả vì tôi mà thuyết Pháp cho nghe." Ngài
Huệ Năng nói: " Nhà ngươi vì Pháp mà lại thì nên dẹp tắt các
duyên đi, đừng sanh một lòng nghĩ gì hết; ta sẽ nói rõ cho nhà ngươi
nghe ", rồi một lúc sau, chờ cho Huệ Minh lắng tâm thanh tịnh Ngài mới
nói: " Chẳng nghĩ điều lành, chẳng nghĩ điều dữ, chính trong lúc
ấy mới hiểu rõ diện mục bổn lai của bực Thượng Tọa ".
Huệ Minh nghe rồi đại ngộ, lại hỏi
thêm: " Từ trước tới nay ngoài lời nói kín do mật ý phát ra, còn
có mật ý nào nữa chăng ? " Huệ Năng trả lời. " Cái tôi đã
nói với ông thì không phải là sự bí mật, nếu ông tự phản chiếu thì
mật ý chính ở bên ông vậy!" Huệ Minh nói: " Huệ Minh tuy ở
Hoàng Mai thật chưa từng xét ra diện mục của mình. Nay nhờ ơn chỉ biểu
như người uống nước, lạnh hay ấm tự mình biết lấy. Nay Ngài tức là
thầy của Huệ Minh ". Ngài Huệ Năng nói: " Anh được như vậy thì
chính là cùng tôi tôn Ngài Hoàng Mai làm thầy, hãy khéo tự hộ trì lấy
mình ". Huệ Minh lại hỏi: " Từ nay về sau, Huệ Minh nầy nên đi
xứ nào ? " Huệ Năng đáp: " Gặp Viên thì ngừng, gặp Mông thì
ở." Huệ Minh làm lễ từ biệt. Rồi Huệ Minh trở lại đám người
kia, bảo họ là không thấy dấu, nên họ chuyển sang tìm hướng khác. Sau
nầy Huệ Minh đổi tên mình thành Đạo Minh.
Rồi Ngài Huệ Năng lần đến thôn Tào Hầu,
quận Thiều Châu, không có người nào biết mà ẩn náu. Khi ấy có Lưu Chí
Lược, nhà nho đãi Sư rất hậu, Chí Lược có người Cô là Ni Sư hiệu là
Vô Tận Tạng thường tụng kinh Niết Bàn. Sư nghe qua liền biết nghĩa mầu
nhiệm, bèn giải thuyết cho nghe. Ni Sư cầm quyển kinh hỏi chữ. Sư bảo
không biết chữ nhưng cứ hỏi nghĩa Sư giải thích cho. Ni Sư nói: " Chữ
còn chẳng biết sao hiểu được nghĩa" Sư nói: "Lý mầu nhiệm của
chư Phật chẳng quan hệ gì với văn tự ".
Ni Sư ngạc nhiên và báo cho mọi người
rõ: "Đây là người hiểu Đạo, nên thỉnh cúng dường".
Thuở ấy, trong thôn có Tào Thúc Lương
cháu 5 đời của Tào Tháo và dân chúng ở gần đua nhau lại chiêm bái Sư.
Đương thời, ở thôn Tào Khê có một ngôi chùa cũ tên là Bảo Lâm vì nạn
binh lửa cuối đời Tùy đã để bỏ, người ta bèn cất lại rước Sư về
ở đó. Ngôi chùa nầy nguyên do Ngài Trí Dược khuyên bảo dân Tào Hầu dựng
nên và có báo rằng: " Lối một trăm bảy chục năm nữa sẽ có vị
Vô Thượng Pháp Bảo đắc đạo ở đây, kể đắc đạo đông như rừng,
chùa cất thì đặt hiệu là Bảo Lâm." Chùa cất xong quan Mục Thiều
Châu là Hầu Kính Trung soạn tờ biểu dâng lên triều đình, được vua
Lương Võ Đế chuẩn lời ban cho tấm biễn là Bảo Lâm Tự, đó là năm thứ
ba triều Thiên Giám ( 504 ).
Ngài Huệ Năng ngụ ở đây hơn chín
tháng, lại bị một số người truy lùng, Sư trốn qua ngọn núi phía trước,
lại bị bọn chúng đốt núi nhưng may mắn Sư tránh khỏi, nhớ đến lời
Ngũ Tổ dạy: Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn nên Sư đi đến huyện
Tứ Hội theo đám thợ săn ở ẩn. Ở với đám thợ săn, Ngài tùy nghi mà
nói đạo cho họ nghe, khi nào bọn thợ săn sai giữ lưới, mỗi khi thấy
muông thú sa vào, Ngài đều thả hết. Đến mỗi bửa ăn, chỉ lấy rau ở
trong nồi thịt mà ăn. Có kẻ hỏi thì đáp: " Chỉ ăn rau bên thịt
". Trải qua mười lăm năm, đến một ngày kia Ngài suy nghĩ, lúc nầy
nên hoằng pháp, không thể ẩn núp nữa.
Bèn đi đến chùa Pháp Tánh ở Quảng
Châu, ngày mồng 8 tháng Giêng Bính Tý ( 675 ), gặp lúc Ấn Tông Pháp Sư giảng
kinh Niết Bàn. Khi ấy gió thổi lá phướng lay động, có hai ông Tăng bàn
cải với nhau, kẻ cho " gió động ", người cho " phướng động
" chẳng ai chịu thua ai. Ngài Huệ Năng bước tới nói rằng: " Chẳng
phải gió động, chẳng phải phướng động, ấy là lòng người động."
Mọi người ngạc nhiên.
Ấn Tông mời lên chiếu trên ngồi, cầu
hỏi nghĩa lý Phật pháp, thấy Ngài Huệ Năng lời giản dị, lý chánh đáng,
không do văn tự. Ấn Tông hỏi: "Ngài chắc không phải người thường.
Từ lâu nghe Áo, Pháp của Ngài Hoàng Mai xuống phương Nam, chắc là Ngài phải
chăng ?" Ngài Huệ Năng đáp: " Không dám !"
Rồi Ấn Tông làm lễ xin đem Y, Bát cho
đại chúng coi. Ấn Tông lại hỏi thêm: " Ngài Hoàng Mai giao phó cho
Ngài thì chỉ thị những gì ?" Ngài đáp: " Không chỉ thị gì, chỉ
bàn thấy Tánh, chớ không bàn Thiền Định, Giải Thoát." Ấn Tông hỏi:
" Tại sao không bàn thiền định và giải thoát ? " Ngài đáp:
" Đó là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp thì không phải
hai ". Ấn Tông lại hỏi: " Thế nào là pháp không hai của Phật
pháp ? " Ngài đáp: " Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn, làm sáng tỏ Phật
tánh, đó là Phật pháp chẳng có hai. Như Ngài Cao Quí Đức Vương Bồ Tát
bạch Phật rằng: " Những kẻ phạm bốn giới cấm nặng, làm năm tội
nghịch và bọn không tin Phật pháp ( Nhứt Xiển Đề ) có dứt mất thiện
căn, Phật tánh hay không ? " Phật đáp: " Thiện căn có hai; một thường;
một vô thường. Phật tánh không thường cũng không vô thường, bởi vậy
cho nên chẳng dứt đặng. Gọi là không hai: Một là thiện, hai là không
thiện mà Phật tánh không thiện cũng không bất thiện nên gọi là không
hai. Uẩn cùng với Giới, phàm phu thấy là hai, còn người đã đạt ngộ
thì tánh nầy không hai. Tánh không hai tức là Phật tánh."
Ấn Tông nghe xong, hoan hỷ chấp tay mà
nói: " Tôi giảng kinh như ngói gạch, Ngài luận nghĩa như vàng
ròng." Ngài Huệ Năng bèn mở Pháp môn Đông Sơn ở gốc cây Bồ Đề,
cây nầy do Ngài Trí Dược đem từ Ấn Độ sang trồng tại đây. Vào năm
đầu Thiên Giám của vua Lương Võ Đế ( 502 ), có dựng bia ghi: " Sau đây
lối một trăm bảy chục năm sẽ có vị Bồ Tát xác thịt khai diễn thuyết
thượng thừa tại dưới cây nầy độ cho vô lượng chúng là vị pháp chủ
chơn truyền tâm ấn Phật vậy." Nơi đây Ngài Cầu-Na-Bạch-Đà-La tam
tạng pháp sư cũng có dựng bia vào thời Lưu Dụ ( 420-478 ), có ghi rằng:
" Sau nầy sẽ có vị Bồ Tát xác thịt thọ giới ở đây."
Đến ngày rằm tháng Giêng năm ấy, Ấn
Tông họp tứ chúng xuống tóc cho Ngài Huệ Năng và đến ngày mồng tám
tháng Hai, nhóm các vị đức hạnh danh tiếng đương thời như Ngài Trí
Quang Luật Sư ở Trường An làm Thọ Giới Sư, Ngài Huệ Tịnh Luật Sư ở
Tô Châu làm Yết Ma, Ngài Thông -ng ở Kinh Châu làm Giáo Thọ, Ngài Kỳ-Đa-La
Luật Sư ở Trung Ấn làm Thuyết Giới. Ngài Mật-Đa Tam Tạng Pháp Sư ở
Ấn Độ làm chứng minh, để cho Ngài Huệ Năng thọ giới, Ấn Tông từ đây
tôn Ngài Huệ Năng tức Lục Tổ làm thầy.
Mùa Xuân năm sau, Ngài từ giả tứ chúng
về chùa Bảo Lâm, Ấn Tông Pháp Sư, các tăng ni Phật tử có trên ngàn người
đưa Ngài tới Tào Khê. Khi ấy Ngài Thông -ng luật sư ở Kinh Châu cùng
vài trăm học giả nương theo Sư. Sư thấy chùa Bảo Lâm chật hẹp nên có
đến viếng Trần Á Tiên, người trong vùng để xin cúng dường đất cất
thêm trang viện. Trần Á Tiên bằng lòng hiến cúng tất cả đất đai trong
ấy kể cả mả mồ tứ đại để xây dựng chùa. Sư đi dạo chơi trong vùng
đất ấy, gặp cảnh tốt bèn dừng nghỉ rồi cất thành một chùa nhỏ, tổng
cộng được 13 chùa nhỏ trong vùng đất Tào Khê nầy. Lục Tổ về tới
chùa Bảo Lâm vì ở trong núi cách trở nên Thứ Sử Thiều Châu Vi Cứ
cùng thuộc viên vào núi thỉnh Sư ra chùa Đại Phạm ở thành Thiều Châu
khai duyên thuyết pháp.
Tiểu sử đắc pháp và các bài thuyết
pháp chính yếu của Ngài ghi trong Pháp Bảo Đàn Kinh đều được giảng
ở chùa Đại Phạm nầy.
Rằm tháng Giêng năm 684, Đường Trung Tông
theo lời đề nghị của Huệ An Quốc Sư và Thần Tú Đại Sư, sai quan Nội
Thị Tiết Giảng đến chùa Bảo Lâm thỉnh Lục Tổ vào triều để thuyết
pháp cho Thái Hậu và Vua.
Lục Tổ dâng biểu cáo từ vì bệnh, xin
trọn đời được ở nơi núi non tu hành. Theo lời thỉnh cầu của Tiết
Giảng về những vấn nạn Phật Pháp, Lục Tổ đã giảng dạy về tọa
thiền về Phật tánh. Tiết Giảng được ngộ, trở về kinh tâu lên Vua.
Ngày mồng 3 tháng 9 năm ấy, Vua ban chiếu
khen thưởng , cúng dường áo cà sa bá nạp và bình bát thủy tinh, truyền
cho Thứ Sử Thiều Châu sửa sang chùa, lại truyền cất một ngôi chùa chỗ
ở cũ của Lục Tổ, ban tên là chùa Quốc Ân:
Tháng 7 năm Nhâm Tý ( 685 ), Lục Tổ sai
môn đồ qua chùa Quốc Ân tại Tân Châu xây tháp và khiến thợ làm mau, để
cuối mùa hạ năm sau khánh thành.
Ngày mồng một tháng Bảy năm Quí Sửu (
713 ), Sư nhóm đồ chúng mà dạy rằng: " Đến tháng 8 nầy ta muốn
lìa khỏi thế gian. Bọn ngươi có điều chi nghi, nên hỏi sớm đi, đặng
ta phá nghi cho, khiến cho các ngươi hết mê. Chớ nếu sau ta đi rồi, không
có người dạy các ngươi."
Các Sư như Pháp Hải nghe qua đều khóc,
duy có Thần Hội là thần tình chẳng động, cũng không khóc. Lục Tổ
nói: " Thần Hội tiểu sư ! Ví dầu được những điều lành hay chẳng
lành, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, chẳng cho là được gì hết."
Còn các ngươi ! Ở trong núi bao nhiêu năm đã tu được những gì ? Vì ai
mà ưu tư thương khóc. Nếu lo cho ta không biết chỗ đến ? Chính ta tự biết
chỗ mình đến. Nếu ta không biết chỗ đến, đã không báo trước cho các
ngươi. Các ngươi thương xót khóc than, thật là chưa biết nơi ta đến. Nếu
biết nơi ta đến tất chẳng nên than khóc làm chi. Pháp tánh vốn không
sanh, không diệt, không đến, không đi. Tất cả hảy ngồi xuống ta sẽ đọc
cho các ngươi một bài kệ gọi là: chơn, giả, động, tịnh. Các ngươi tụng
bài kệ nầy. Đồng ý với ta, theo đó mà tu hành, chẳng sai tông chỉ.
Chư tăng làm lễ, thỉnh Lục Tổ đọc kệ,
Ngài đã đọc bài kệ như sau:
Hết thảy không có chơn,
Chẳng đem coi là chơn
Nếu coi là chơn đó y coi hết chẳng chơn
Nếu tự mình có chơn
Lìa giả, tức tâm chơn
Tâm mình chẳng lìa giả
Không chơn, chốn nào chơn?
Có tình liền biết động
Không tình liền chẳng động
Nếu ta chẳng động hành
Đồng không tình chẳng động
Nếu tìm thiệt chẳng động
Trên động có chẳng động
Chẳng động là chẳng động
Không tình không Phật chủng
Khéo phân biệt được tướng
Nghĩa đệ nhứt chẳng động
Chỉ làm kiến như vậy
Tức là chơn như dụng
Bảo người học đạo hay
Rán sức nên dụng ý
Đừng ở cửa Đại Thừa
Giữ lấy trí sanh tử
Nếu dưới lời ứng nhau
Liền cùng bàn Phật nghĩa
Nếu thiệt chẳng ứng nhau
Chấp tay, khiến hoan hỷ
Tông nầy vốn không tranh
Tranh liền mất đạo ý
Pháp môn chấp nghịch tranh
Tự tánh vào sanh tử.
Lục Tổ kệ xong, tất cả đều làm lễ,
thảy đều giữ tâm y theo pháp tu hành không dám tranh cải. Khi biết Lục Tổ
chẳng còn trụ thế lâu đời. Sư Pháp Hải đến trước Tổ lễ Ngài để
hỏi:
- Sau khi Hòa Thượng nhập diệt, Áo Pháp
nên giao cho ai ?
Lục Tổ bảo: " Từ khi ta thuyết
pháp ở chùa Đại Phạm đến giờ, hảy ghi chép lại lưu hành, đề tựa
là " Pháp Bảo Đàn kinh ". Các ngươi hãy gìn giữ truyền trao cho
nhau, độ cho quần sanh. Theo y như thuyết nầy, đó là chánh pháp. Nay ta
thuyết pháp cho các ngươi nghe chớ không có truyền Áo nầy. Thật là vì
tín căn của các ngươi thuần thục quyết định chẳng nghi, nhậm nỗi việc
lớn. Theo ý kệ của Tổ Sư Đạt Ma truyền trao thì Áo không nên truyền nữa."
Ngô bổn lai tư độ
Truyền Pháp cứu mê tình
Nhứt hoa khai ngủ diệp
Kết quả tự nhiên thành
Nghĩa:
Vốn ta lại đất ấy,
Truyền Pháp cứu mê tình
Một hoa trổ năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.
Ngày mồng 8 tháng 7 Quí Sửu ( 713 ), Lục
Tổ bảo môn đồ rằng: " Ta muốn về Tân Châu, các ngươi sửa soạn
thuyền chèo cho mau ". Các môn đồ khẩn thiết xin Tổ lưu lại lâu hơn.
Tổ nói: " Chư Phật xuất hiện còn tỏ ra Niết Bàn. Có lúc lại, ắt
có lúc đi, cũng là lẻ thường vậy. Hình hài nầy của ta ắt có nơi về.
"
Môn đệ hỏi: " Từ đây Sư đi, sớm
muộn gì cũng có khi trở về ? " Sư đáp: " Lá rụng về cội.
Không hẹn ngày trở về."
Môn đệ lại hỏi: " Chánh pháp truyền
trao cho ai ? " Sư đáp: " Kẻ có đạo thì đắc, kẻ vô tâm thì
thông."
Môn đồ lại hỏi thêm: " Sau nầy
có nạn gì chăng ? " Sư đáp: " Sau khi ta diệt độ năm, sáu năm sẽ
có người lại lấy đầu ta, hãy nghe lời sấm ký của ta :
Đầu thượng dường thân
Khẩu lý tu san
Ngộ Mãn chi nan
Dương Liễu vi quan ".
Nghĩa là :
Trên đầu thờ cha mẹ
Trong miệng cần miếng ăn
Gặp cái nạn thằng Mãn
Lúc Dương, Liễu làm quan
Rồi Lục Tổ rời Tào Khê, đến chùa Quốc
Ân ở Tân Châu. Ngày mồng 3 tháng 8 năm Quí Sửu ( 713 ) Lục Tổ thọ trai
ở chùa Quốc Ân xong, Ngài bảo các môn đồ rằng: " Các ngươi đều
y vị thứ mà ngồi, ta từ biệt các ngươi đây."
Sư Pháp Hải bạch xin Ngài lưu lại một
thời pháp, khiến cho người mê sau thấy được Phật tánh. Vì lời thỉnh
cầu đó, Lục Tổ thuyết một bài pháp Phật tại tâm chúng sinh và lưu một
bài kệ " Tự Tánh Chơn Phật ".
Lục Tổ đọc kệ xong bảo đồ chúng,
sau khi Ngài diệt độ, đừng khóc lóc, đừng nhận phúng điếu, đừng mặc
đồ tang, ấy không phải là chánh pháp. Rồi Ngài đọc một bài kệ:
Ngột ngột bất tu thiện
Đằng đằng bất tạo ác
Tịch tịch đoạn kiến văn
Đảng đảng tâm vô trước
Nghĩa là :
Sững sững chẳng tu hành
Trơ trơ không tạo dữ
Thấy nghe dứt như không
Tâm không chút nghi lự.
Kệ xong, Lục Tổ ngồi ngay ngắn cho tới
canh ba, thình lình bảo môn đồ: " Ta đi đây ". Rồi Ngài tịch diệt.
Lục Tổ thọ 76 tuổi. Năm 24 tuổi còn
là cư sĩ được trao truyền Y, Bát . Năm 39 tuổi, xuống tóc thọ cụ túc
giới. Thuyết pháp lợi ích cho chúng sanh 37 năm, kẻ ngộ đạo cao siêu rất
nhiều, kẻ được nối pháp có 43 người, môn đệ anh tuấn có Thanh
Nguyên Hành Tư, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Hà Trạch Thần Hội, Vỉnh Gia Huyền
Giác, Nam Dương Tuệ Trung, Pháp Hải . Chính Ngài Pháp Hải thường theo Lục
Tổ ghi chép thuyền ngữ, ngôn hành rồi soạn thành bộ Tôn Bảo. Sau nầy
Linh Thao dựa theo đó và các văn bia của Thượng Thư Vương Duy, Thứ Sử
Liễu Tôn Nguyên và Lưu Vũ Tích soạn thành Pháp Bảo Đàn Kinh.
Môn đồ của Ngài Nam Nhạc sau phân lập
thành 2 tông phái Thiền là Lâm Tế và Quy Ngưỡng.
Còn môn đồ của Ngài Thanh Nguyên sau
phân lập thành 3 tông phái Thiền là Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhẫn. Năm tông
nầy ứng với câu kệ: " Nhứt hoa khai ngũ diệp."
Đến tháng 11 năm ấy, quan lại, môn đồ
của Ngài ở ba quận Quảng Châu, Thiều Châu và Tân Châu đều muốn giữ
nhục thân của Ngài để tôn thờ, nên cuối cùng phải giải quyết, đốt
hương khấn nguyện với Ngài " Hễ khói nhang bay về hướng nào, nhục
thân sẽ được rước về đó ". Rồi khói nhang bay về hướng Tào
Khê.
Ngày 13 tháng 11 năm Quí Sửu ( 713 ). Linh
cửu, Y, Bát được rước về Tào Khê.
Ngày 25 tháng 7 năm Giáp Dần ( 714 ), tổ
chức lễ nhập tháp cho nhục thân Lục Tổ. Những bảo vật như Y, Bát của
Tổ Đạt Ma truyền lại, Y ma nạp, Bát thủy tinh của Vua Trung Tông ban và
tượng Lục Tổ do Sư Phương Biện đấp cùng các đạo cụ, đều giao cho
thị giả của Lục Tổ, để tại chùa Bảo Lâm.
Đêm mồng 3 tháng 8 năm Nhâm Tuất ( 722
), thình lình nghe trong tháp như có tiếng kéo dây sắt. Chúng tăng giựt mình
thức dậy, ngó thấy một người mặc đồ đại tang từ trong tháp chạy
ra. Tìm thấy có vết thương tại nơi cổ Lục Tổ. Môn đồ đem chuyện
ấy trình lên quan trên. Quan huyện Dương Khản và Thứ Sử Liễu Vô Thiễm
nhận được đơn, truy lùng kẻ phạm tội. Sau năm ngày tìm được tên Trương
Tịnh Mãn, người huyện Lương thuộc Nhữ Châu, ở chùa Khai Nguyên xứ Hồng
Châu, nhận do Thầy Sải Kim Đại Bi nước Hàn khiến mướn lấy đầu Tổ
để đem về xứ Hải Đông cúng dường.
Quan Thứ Sử họ Liễu nghe lời khai,
chưa gia hình, liền đến Tào Khê hỏi Sư Linh Thao: " Vụ án nầy, xử
như thế nào ? " Linh Thao đáp: " Nếu lấy luật nước mà bàn, thì
nên giết. Nhưng lấy nghĩa từ bi của Phật giáo thì oán thù như nhau, huống
hồ gì hắn muốn cúng dường, thì nên tha thứ vậy."
Liễu Vô Thiễm khen: " Mới hay cửa
Phật quảng đại !"
Việc nầy ứng với câu sấm ký của Lục
Tổ, nhục thân Ngài bị kẻ trộm người Mán cắt lấy đầu, lúc Dương
Khản làm quan huyện và Liễu Vô Thiểm làm quan Thứ Sử.
Năm đầu Thượng Nguyên ( 760 ),Vua Túc
Tông sai sứ thỉnh Y, Bát của Lục Tổ đem vào nội cung cúng dường. Qua
năm đầu Vĩnh Thái ( 765 ), ngày 5 tháng 5 năm, Vua Đại Tông chiêm bao thấy
Lục Tổ xin lại Y, Bát. Ngày mồng 7 tháng ấy, sai sứ là Trấn Quốc Đại
Tướng quân Lưu Sùng Cảnh mang Y, Bát trả về chùa Bảo Lâm và truyền cho
Thứ Sử Thiều Châu Dương Giam khiến chùa gìn giữ cẫn thận và Vua đặt
là Quốc Bảo.
Vua Đường Hiến Tông ( 806 - 821 ) ban thụy
là Đại Giám Thiền Sư, đề tên tháp là Nguyên Hòa Linh Chiếu.
Vua Tống Thái Tông ( 976 - 983 ) gia tặng
thụy hiệu là Đại Giám Chơn Không Thiền Sư, chiếu sửa sang lại tháp
và đặt tên là Thái Bình Hưng Quốc Chi Tháp.
Năm 1033, Vua Tống Nhơn Tông ( 1023 - 1064 )
rước chơn thân, Y, Bát của Lục Tổ vào đại nội cúng dường lại gia tặng
thụy hiệu là Đại Giám Chơn Không Phổ Giác Thiền Sư.
Vua Tống Thần Tông ( 1068 - 1086 ) gia tặng
thụy hiệu là Đại Giám Chơn Không Phổ Giác Viên Minh Thiền Sư.
Sự thị hiện của Lục Tổ.
? ngoài thế tục, Lục Tổ là một người
nghèo khó, bán củi nuôi mẹ độ nhật, vào chùa là phụ thung cư sĩ lo việc
bửa củi, giả gạo, chớ chẳng có tụng kinh, nghe pháp. Hơn tám tháng chưa
bước tới chánh điện, thậm chí đến việc Ngũ Tổ tập họp môn đệ lại,
để dạy mỗi người làm một bài kệ trình kiến giải của mình về
tánh Bát nhã, người ta cũng chẳng lưu tâm đến Ngài vì Ngài là người
miền Nam được liệt vào loại man di mà lại không biết chữ nữa! Vậy
mà Lục Tổ đã ngộ được Phật tánh, chứng đắc pháp Phật, được
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trao truyền Y Bát. Việc này phá bỏ tất cả những
quan niệm, nhận thức sai lầm từ trước là chỉ có những người có học,
những người có trí tuệ mới có thể tu học, chứng đắc được Phật
pháp. Trường hợp Lục Tổ chứng thực rằng từ kẻ trí cho đến phàm
phu đều có Phật tánh, cho nên đều có thể thành Phật. Là một trường
hợp thuyết phục mạnh mẻ cho mọi người dễ tin rằng chân lý của đức
Phật rõ ràng "Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính".
Chúng ta thấy rằng đạo Phật được
truyền bá vào Trung quốc từ những năm trước Công Nguyên, cho đến đời
Vua Minh Đế nhà Hậu Hán năm 67 TL nhà Vua sai sứ sang Tây Vực thỉnh tượng
Phật, dọc đường sứ rước được hai nhà sư Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đằng
và Trúc Pháp Lan đưa về kinh đô, Vua mừng rở cho lập Bạch Mả Tự để
hai nhà sư dịch kinh. Từ đó cho đến khi Ngài Huệ Năng cầu Pháp, đạo
Phật đã truyền bá ở Trung Quốc trên 600 năm đã có những nhà sư Trung
Quốc sang Ấn Độ thỉnh kinh như Ngài Pháp Hiển đi Ấn Độ từ năm 399
đến 414 và Ngài Trần Huyền Trang (600-664) đi Ấn Độ từ 629 đến 645, có
nhiều Vua, quan đại thần đã quy y Tam bảo, dốc lòng phụng sự Phật
Pháp như là Lương Võ Đế, một số nhà sư được phong làm Quốc Sư, cho
thấy đạo Phật thời ấy ảnh hưởng mạnh mẻ đến Vua, quan và những
nhà trí thức làm cho người ta có thể nghĩ rằng đạo Phật chỉ thích hợp
cho hạng người trí thức, uyên thâm kinh điển, để nghiên cứu giáo lý.
Trường hợp Ngài Huệ Năng là một biến cố, đạo Phật chân truyền từ
đức Thế Tôn cho đến Ngài vẫn chỉ là một giáo lý, một chân lý. Tự
tánh Bồ Đề bổn lai thanh tịnh, bình đẳng với mọi người, ai ai cũng có
thể đạt tới thanh tịnh, thanh tịnh thường hằng ấy là đạt đạo vậy.
Tư tưởng căn bản của Lục Tổ.
Không phải tự nhiên mà Lục Tổ, hoặc
là người viết Pháp Bảo Đàn Kinh đã đưa lên hàng đầu quyển kinh,
cũng là lời mở đầu bài giảng ở chùa Đại Phạm khi Tổ được Thứ Sử
Lưu Cứ thỉnh Ngài từ núi ra thành Thiều Châu giảng kinh:
- Thiện tri thức! Bồ Đề tự tánh, bổn
lai thanh tịnh, đản dụng thủ tâm, trực liễu thành Phật.
Nghĩa là: Hởi chư thiện tri thức! Tự tánh
Bồ Đề vốn thanh tịnh, chỉ dùng cái tâm nầy, đủ thành Phật vậy.
Ai cũng biết rằng Phật đã dạy "mọi
chúng sanh đều có Phật tánh". Phật tánh ấy là tự tánh Bồ Đề là
sự thanh tịnh. Làm thế nào giữ cho được tâm của mình luôn luôn thanh tịnh
thì sẽ thành Phật.
Ở đây Lục Tổ khẳng định lại một
lần nữa sự chứng đắc của Ngài :
Bồ Đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Qua bài kệ nầy, chúng ta thấy Ngài đã
khẳng định tự tánh Bồ Đề vốn không là, không phải, không có một vật
gì cả mà như vậy thì nó thanh tịnh đó là Ngài định nghĩa. Bây giờ
Ngài chỉ cho cách tu để thành bậc chánh giác ấy là phải giữ cho tâm
luôn luôn được thanh tịnh tức là đạt đến cảnh giới Niết Bàn, đạt
đạo tức là thành Phật.
Trong kinh Di Đà, Phật có dạy: "Nếu
có thiện nam, tín nữ nào hoặc một ngày cho đến bảy ngày niệm danh hiệu
Phật, tâm không tán loạn, khi sắp chết sẽ được Phật A Di Đà và chư
vị Thánh hiện ra trước mắt. Khi chết mà tâm không tán loạn liền được
sanh về cõi cực lạc của Phật A Di Đà. Nhờ đoạn kinh phổ quát nầy,
chúng ta thấy rằng một khi ta nhứt tâm chánh niệm, không chút xao đ?ng thì
tâm ta đạt được cảnh giới thanh tịnh, tâm ấy là Bồ Đề tâm mà
tánh ấy là tánh thanh tịnh: Không sanh, không diệt, không thêm, không bớt,
không dơ, không sạch. Đó cũng là Trí Bát Nhã vậy. Đạt đến nhứt tâm
bất loạn, tức là tâm Bồ Đề, tức là đã đến bờ bên kia. Một người
ngồi thiền, một người niệm Phật đều có thể đạt được.
Tư tưởng căn bản của Lục Tổ được
Ngài trình bày thật rõ ràng, cô động và xúc tích.
Sự hình thành dòng thiền đông độ.
Qua câu hỏi của Ngũ tổ : " Gạo giả
đã trắng chưa ? ", nếu câu ấy Tổ hỏi chúng ta, chắc chúng ta sẽ
trả lời một trong hai trường hợp " - Đã trắng hoặc chưa được trắng
". Còn Huệ Năng hiểu theo mật ý là đã đạt đạo chưa ? Do đó Ngài
trả lời là " - Gạo giả đã trắng, chỉ còn thiếu cái sàng ",
có nghĩa là lý đạo đã thấu nhưng còn chờ người chứng đắc cho.
Rồi Ngũ tổ tay đang cầm quạt, gõ vào
cối ba cái, ngài Huệ Năng hiểu liền đó là ước hẹn vào canh ba, cho
nên ngài Huệ Năng canh ba đêm đó liền lẻn vào phương trượng của ngài
Hoằng Mai, từ lời lẽ trong bài kệ đến những câu đối đáp, nhậm ý
chứng tỏ căn tánh ngài Huệ Năng đã đạt đạo. Do đó Ngũ tổ đã trao
truyền tâm ấn, giao phó cho Lục tổ trách nhiệm hoằng pháp, độ sanh, xiển
dương chánh pháp, làm cho dòng Thiền Đông độ ngày càng hưng thịnh hơn.
Lục tổ lấy kinh nghiệm bản thân mình,
không cần phải đọc thiên kinh, vạn quyển, chỉ giữ cho tâm thanh tịnh,
trí Bát nhã tự nhiên sanh, chính Lục tổ đã tỏ ngộ được từ kinh Kim
Cang, một kinh sắc như gươm, chặt đứt mọi phiền não, triệt để phá
chấp. Lục tổ dùng kinh Kim Cang làm tôn chỉ cho tông Vô niệm của ngài để
lưu truyền hậu thế, thay chi Lăng già do Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn
Độ mang sang truyền trao lại.
Một vài nghi vấn
Việc Huệ Minh và những người chạy
theo tìm Lục tổ để lấy lại y bát, làm cho nhiều người nghĩ rằng, đạo
Phật là đạo diệt dục nhưng tại sao người ta còn Tham Sân Si, muốn chạy
theo Lục tổ để dành lấy Y Bát ?
Hiểu như vậy cũng đúng nhưng mà nếu
chúng ta ở vào hoàn cảnh một thiền sinh dưới trướng của Ngũ Tổ, chúng
ta sẽ nghĩ và làm gì ? Đâu phải tất cả mọi người vào chùa tu là
Thánh Tăng, xả ly tất cả mọi tham ái ? sân si ? Có những người đã tu
lâu năm, có những người vừa mới tu, họ cũng là người tâm tánh cũng
như chúng ta mà thôi, cho nên ai ai cũng tôn kính giáo thọ Thần Tú, mọi người
đều nghĩ rằng Thần Tú sẽ được truyền y bát, gần nhất là bài kệ của
người đã được Ngũ tổ tán dương. Còn Huệ Năng, dưới mắt của các
Thiền sinh chẳng qua là một anh chàng quê mùa, dốt nát, chỉ có làm công
quả, chẳng có tụng kinh, ngồi thiền, sau ba ngày anh ta mất tích, Ngũ tổ
cũng không thăng đường thuyết pháp, nay ngài cho biết Y Bát đã truyền
cho Huệ Năng ! Có lẽ vì lòng Từ mà ngài phải nói như thế, để giúp
cho Huệ Năng khỏi bị mang tội trộm cắp mà thôi, chớ sự trao truyền
ấy có ai đã thấy ? Chàng ta đã xứng đáng chưa ? Chắc là chưa. Vì bài
kệ của Huệ Năng đọc cho quan Biệt giá Trương Nhật Dụng chép lên
vách, đã bị Ngũ tổ dùng dép xóa đi, trước mọi người ngài còn khẳng
định là chưa đạt đạo kia mà. Nhưng có lẽ lòng tham của Huệ Năng nỗi
lên, đã đánh cắp Y Bát và trốn chạy, mà anh chàng nhà quê ấy còn trốn
chạy đâu hơn là chạy về miền Nam.
Ở vào trường hợp nầy, Ngũ tổ có
lòng từ nên tha thứ, nhưng nếu chúng ta không chạy theo lấy lại Y Bát trả
về cho Ngũ tổ mới là đáng chê trách người đệ tử không biết bảo vệ,
phục vụ thầy tổ mình. Cho nên Huệ Minh và những người sơ cơ khác chạy
theo Lục Tổ để dành lại y bát, là một hành động đương nhiên thường
tình, lý phải như vậy, còn nếu Thần Tú chạy theo mới đáng cho chúng ta
chê trách.
Ngũ tổ vì sao truyền Y Bát mà không cho
chúng đệ tử rõ ? Lý do chánh yếu là ngài biết rõ ai ai cũng tôn thờ Thần
Tú, từ lâu mọi người tin chắc rằng Thần Tú sẽ được truyền Y Bát,
nay nếu tuyên bố Y Bát truyền cho Huệ Năng mọi người sẽ không thể
phá chấp, sẽ xem Huệ Năng là một người quê mùa, dốt nát, tầm thường
và Huệ Năng có thể bị ám hại, cho nên Ngũ tổ đã dạy Huệ Năng xuôi
về Nam, ẩn thân một thời gian, như thế một là Huệ Năng đến miền đất
xa lạ, chưa ai biết tông tích, người ta sẽ dễ dàng chấp nhận, tôn thờ,
hai là thời gian ẩn thân để làm cho tâm mọi người lắng động, phải
chấp nhận việc truyền trao Y Bát đó là đương nhiên, khi đã được một
số người khác tôn sùng, họ sẽ bảo vệ thầy tổ của mình, ba là Huệ
Năng có đủ thời gian để nghiền ngẫm suy tư và chứng ngộ, chờ đợi
một cơ hội thuận tiện khai mở dòng thiền, ngài đã khai mở đúng lúc bằng
một nhát búa bổ mạnh vào tâm thức hai thiền sinh về " tâm động
", trong khi họ cãi với nhau vì lá phướng động hay vì gió động.
Khi tiễn Huệ Năng, Ngũ tổ cho biết ba
năm sau người sẽ tịch, tại sao Ngài không dành ba năm đó để giảng dạy
chữ nghĩa, kinh điển, khai mở trí tuệ cho Huệ Năng rồi mới trao truyền
Y Bát, thật ra thì Huệ Năng đã đạt đạo, sau nầy ngài đã nói với Ni
sư Vô Tận Tạng : " Lý mầu của chư Phật chẳng quan hệ gì với văn
tự ". Mà đúng vậy, Huệ Năng đâu đã học chữ nào mà đã ngộ được
kinh Kim Cang, thì cần gì Ngũ tổ phải dạy thêm chữ nghĩa, điều nầy lại
hóa ra là một khẳng định, một phá chấp triệt để những lớp trước
hoặc đương thời tôn sùng văn tự, phải lão thông kinh điển, chẳng hạn
như Tam Tạng Pháp sư Trần Huyền Trang, mới có thể tu học và chứng ngộ
giáo lý đạo Phật.
Lãnh Nam là tên vùng đất Việt Nam thời
trước, nhưng cha mẹ của Huệ Năng đều là người Trung Hoa và chùa Quốc
Ân ở xứ Tân Châu, nơi mà vua Đường Trung Tông ban cho ở chỗ cũ tức là
đất Lãnh Nam, chúng ta không thấy những sách Phật giáo Việt Nam xưa nói
đến, phải chăng xứ Tân châu nằm ở Quảng Đông ngày nay, đất nầy thuộc
Trung Quốc từ lâu vã lại Lục tổ cũng là người Trung Quốc nên các
sách Phật giáo xưa đều không nói tới. Hơn nữa, trong Kinh Lăng Già Tâm
Ấn do Thiền sư Thích Thanh Từ dịch năm 1975 phần Lăng già tâm ấn duyên
khởi, Kim Vô một Thiền sư Trung Hoa viết " ... Đến năm Mậu Tuất (
1641 ), Ngài trở về Lãnh Nam. Kim Vô tôi năm sau từ Ngọc Môn tìm đến
...", như vậy, Lãnh Nam của Huệ Năng và của Kim Vô nói tới có thể
là một và nó là đất Trung Hoa mà thôi.
Phương pháp thực hành.
Phương pháp thực hành của Lục Tổ được
Ngài tạo thành một pháp môn Vô Niệm mà Ngài có nói rõ, lấy vô niệm
làm tông, vô tướng làm thể và vô trụ làm gốc. Ngài dạy vô niệm là
đối với chuyện nghĩ mà không nghĩ, Vô Tướng là đĨi với tướng mà rời
khỏi tướng và Vô Trụ là chẳng trụ vào mỗi điều nghĩ, tức là không
bị trói buộc.
Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về tông
vô niệm của Ngài do chính Ngài giảng: Sao kêu là vô niệm? Biết và thấy
tất cả các pháp mà lòng chẳng chấp nê, thấm nhiễm, ấy là vô niệm.
Dùng đến liền biến khắp mọi nơi, cũng chẳng chấp nê hết thảy mọi
nơi. Chỉ cốt trong sạch lòng mình, khiến cho sáu thức ra khỏi sáu cửa,
ở trong lục trần mà không tạp, không nhiễm. Qua lại tự do, không dụng
không trệ, tức là Bát Nhã Tam Muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh
vô niệm. Nếu đối với trăm vật chẳng nghĩ, rồi khiến cho niệm tuyệt,
tức là hành pháp trói buộc, đó kêu là biên kiến.
Hỡi chư thiện tri thức! Hể ai ngộ được
pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật. Hể ai ngộ được pháp
vô niệm tức đạt được địa vị Phật.
Để dạy người ta thực hành pháp vô niệm,
Lục Tổ có 2 bài kệ, chúng tôi chọn một bài trích ra đây, vì thấy rằng
nó đầy đủ hơn bài kia:
Thuyết thông với tâm thông với hai tướng,
Như mặt trời treo tượng hư không
Chỉ truyền thấy tánh pháp dòng
Ra đời phá bể tà tông ra ngoài.
Pháp chẳng cứ hai loài tiệm đốn
Chậm mau do ở chốn tĩnh mê
Cửa này thấy tánh thì về
Người ngu che lấp chẳng hề tĩnh ra
Dầu giảng thuyết rộng xa muôn dặm
Mà lý thì hiệp lại một đường
Trong nhà phiền não mơ màng
Mặt trời huệ tỏ nên thường mọc ra
Hễ tà lại tức là phiền não
Hễ chánh về phiền não trừ đi
Chánh tà đều chẳng dùng chi
Một lòng thanh tịnh đến thì không dư
Bồ Đề vốn chơn như tự tánh
Hễ khởi lòng bất chánh là sai
Tịnh tâm vẫn ở trong sai
Chánh xô ba chướng ra ngoài đạo ngay
Người đời nếu có hay tu lạy,
Hết thảy đều chẳng hại đạo mầu
Lỗi mình mình thấy làu làu
Tức là với đạo hai đầu tương đương
Loài sắc tự nó thường có đạo
Đều chẳng làm phiền não chi nhau
Lìa đạo, tìm đạo ở đâu?
Trốt đời chẳng thấy đạo mầu nơi nao
Một đời những lao đao vì đạo
Rốt cuộc rồi áo não lấy thân
Muốn tìm cho thấy đạo chơn
Làm ngay thì đạo xây vần tới ngay
Tự mình nếu không hay có đạo
Làm quấy thì thấy đạo là gì.
Kẻ nào thiệt dạ tu trì
Tự nhiên chẳng thấy lỗi chi ở đời
Nếu mình thấy những người làm quấy
Mình quấy theo kẻ ấy thấp thay
Quấy ai ta chẳng quấy lây
Nếu ta cũng quấy lỗi rày ở ta
Vậy ta hãy ruồng xa lòng quấy
Phiền não trừ chẳng thấy não phiền
Ghét yêu chẳng bận lòng thiền
Ruổi dài hai cẳng nằm yên một giường
Với người khác tìm phương khuyến thiện,
Tự mình nên phương tiện tùy cơ
Chớ cho họ có lòng ngờ.
Tức là tự tánh bây giờ hiện ra
Pháp Phật ở đời ta như vậy
Chẳng lìa đời mà thấy riêng bề
Lìa đời kiến đạo bồ đề
Như tìm sừng thỏ chẳng hề thấy đâu
Chánh kiến ấy tên đầu xuất thế
Tà kiến là tiếng để thế gian
Chánh tà quét sạch một làn
Tánh bồ đề sẽ chan chan hiện trần.
Tụng nầy ấy là phần đốn giáo
Cũng kêu tên là đại pháp thuyền
Mê thì hằng kiếp liên miên
Tĩnh thì giây lát cũng liền thành luôn.
Về pháp môn thiền định Lục Tổ dạy:
Hỡi chư thiện tri thức! Sao kêu là thiền định? Bên ngoài rời khỏi tướng
là thiền. Bên trong chẳng loạn là định. Bên ngoài mắc lấy tướng thì
ở bên trong liền loạn. Bên ngoài nếu rời khỏi tướng, thì tâm liền chẳng
loạn. Bổn tánh tự tịnh, tự định; chỉ vì thấy cảnh mà nghĩ đến cảnh
liền loạn. Nếu thấy các cảnh mà tâm chẳng loạn, đó mới thiệt là định
vậy.
Hỡi chư thiện tri thức! Ngoài rời khỏi
tướng tức là thiền; trong chẳng loạn tức là định; ngoài thiền trong
định đó tức là thiền định. Kinh Bồ Tát Giới chép rằng: "Bổn
tánh của ta nguyên tự nó thanh tịnh".
Hỡi chư thiện tri thức! Ở trong mỗi lúc,
mỗi giây nghĩ, tự mình thấy bổn tánh thanh tịnh. Tự mình tu, tự mình
hành, tự thành Phật đạo vậy.
Qua đây chúng ta thấy rằng từ tư tưởng
căn bản tự tánh bồ đề vốn thanh tịnh, giữ cho tâm mình luôn luôn được
thanh tịnh tức là trở về với bổn tánh, khi đã hợp nhất với tự
tánh thì Bát Nhã Trí sanh, đạt quả vị Bồ Đề, phương pháp để đạt
được là phải thiền định.
Phương pháp thiền của Lục Tổ như trên
đã nói tức là giữ cho tâm được thanh tịnh không suy tư như Phật đã dạy:
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" để đáp lại câu "vân hà
hàng phục vọng tâm?"
Chính vì vậy mà các Thiền Sư có lối
la, hét, đánh đá những nhà Sư, trong các trường hợp các nhà Sư suy nghĩ
để trả lời câu hỏi của Thiền Sư, bởi vì có suy nghĩ là còn đi ngược
lại phương pháp Thiền Định của Lục Tổ rồi.
Tổ đã nói trong bài kệ trên:
Bồ Đề vốn chơn như tự tánh
Hể khởi lòng bất chánh là sai
Tịnh tâm vẫn ở trong sai.
Chánh xô ba chướng ra ngoài đạo ngay
Nguyên văn:
Bồ Đề bổn tự tánh.
Khởi tâm tức thị vọng.
Tịnh tâm tại vọng trung.
Đản chánh vô tam chướng.
Hiểu được phương pháp căn bản nầy
thì chúng ta thấy có những câu Tổ hỏi và những câu các đồ đệ trả
lời không có liên quan chút nào hết, điều nầy nó thực chứng cho hành
giả có giữ được bổn tánh thanh tịnh hay không.
1- Chẳng hạn Triệu Châu đến chỗ Thiền
Sư Hoàng Bá Hy Vận, Hoàng Bá thấy Sư đến liền đóng cửa phương trượng.
Sư lấy lửa đem vào pháp đường kêu:
- Cứu lửa, cứu lửa!
Hoàng Bá mở cửa, nắm Sư đứng lại, bảo:
- Nói! Nói!
Sư bảo:
- Cướp qua rồi mới trương cung.
2- Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi Thiền
Sư Hoàng Bá:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Hoàng Bá liền đập cho một gậy. Sau Sư
lại hỏi hai lần nữa, cũng bị mỗi lần một gậy. Sư Lâm Tế phải từ
giả sang tham vấn Thiền Sư Đại Ngu, thuật lại sự việc trên, và hỏi rằng
như vậy có lỗi hay không mà bị đánh như thế. Đại Ngu nói: Hoàng Bá dạy
ngươi thống thiết, tại ngươi còn tìm lỗi". Ngay câu nầy Sư Lâm Tế
tĩnh ngộ.
Còn Ngài Đại Ngu lúc còn đi học đạo,
đến chào từ biệt Thiền Sư Trí Thường (Qui Tông). Ngài Trí Thường hỏi:
- Đi đâu?
- Đi các nơi học ngủ vị thiền.
- Các nơi ngủ vị thiền, ta trong ấy chỉ
có nhất vị thiền.
- Thế nào là nhất vị thiền?
Ngài Trí Thường liền đánh. Đại Ngu nhờ
vậy đại ngộ, thưa:
- Ngưng, con hội rồi.
- Nói! Nói!
Đại Ngu vừa nghĩ trả lời.
Ngài Trí Thường liền đánh đuổi đi.
3- Thiền Sư Qui Sơn Linh Hựu cùng chúng
đi hái trà. Thiền Sư bảo Huệ Tịch:
- Trọn ngày hái trà chỉ nghe tiếng con
mà chẳng thấy hình con, hảy hiện bổn hình cho ta thấy coi.
Huệ Tịch liền đập cây trà.
Thiền Sư bảo:
- Con chỉ được cái dụng của nó. Chẳng
được cái thể của nó.
Huệ Tịch thưa:
- Chưa biết Hòa Thượng thế nào?
Thiền Sư im lặng. Huệ Tịch nói:
- Hòa Thượng chỉ được cái thể của
nó, không được cái dụng của nó.
Thiền Sư bảo:
- Cho con hai chục gậy.
4- Thiền Sư Đơn Hà một hôm thượng
đường tay nắm con mèo giơ lên bảo đồ chúng ai nói được sẽ tha con mèo
còn không thì sẽ giết nó. Mọi người đều yên lặng. Thiền Sư liền chặt
đứt đầu con mèo.
Khi Ngài Triệu Châu về tới, Thiền Sư nói
lại câu chuyện, Triệu Châu bèn cỡi giày đội lên đầu. Thiền Sư Đơn
Hà bảo: "Giá khi nãy có ngươi thì đã cứu được con mèo." Có vị
cho rằng Triệu Châu đã lấy đôi giày là cái ti tiện để trên đầu là
chỗ cao quí, tức là muốn nói không có quí tiện, không phàm thánh, vượt
ngoài đối đãi. Đó là một nghĩa nhưng cũng còn có một nghĩa nữa là đừng
có suy nghĩ, Ngài chặt đứt đầu con mèo cũng là hành động dứt khoát chặt
đứt mọi tư lương, phải quấy, thiện ác.... Hiểu như vậy thì hành động
của Triệu Châu đầy ý nghĩa giữ đúng tông phong của Lục Tổ.
Kết quả hoằng hóa của Lục Tổ.
Năm 24 tuổi xuất gia, hơn 8 tháng giả gạo,
sàn thóc tại chùa Động Thiền huyện Hoàng Mai. Sau bài kệ trình kiến giải,
canh ba đêm sau được Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn chứng đắc rồi trao truyền Y
, Bát và đưa lên đường về phương Nam để lánh nạn và hoằng dương chánh
pháp sau nầy.
Từ Hoàng Mai xứ Kỳ Châu, Ngủ Tổ đã
lánh nạn ở Thiều Châu. Lúc ở thôn Tào Hầu, lúc vào rừng ở huyện Từ
Hội sống với bọn thợ săn, trải qua hơn 15 năm. Sau đó Lục Tổ mới đến
chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu gặp Hoà Thượng Ấn Tông, Ấn Tông xuống
tóc và tổ chức lễ cho Ngài thọ cụ túc giới, từ đây Ấn Tông tôn thờ
Lục Tổ làm thầy.
Tại chùa Pháp Tánh Lục Tổ đã khai
pháp môn tại đây, năm sau Ngài về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê hoằng hoá
thiền tông, xiển dương chánh pháp trong 37 năm.
Mấy tháng cuối cùng Ngài về chùa Sắc
Tứ Quốc Ân ở Tân Châu, nơi Ngài đã sanh để tịch.
Trải qua 52 năm kể từ ngày được truyền
Y, Bát chứng đắc pháp môn. Lục Tổ đã lánh nạn tức là bảo vệ chánh
pháp 15 năm. Mười lăm năm nầy ai đã từng trải qua những ngày tháng ẩn
cư lánh nạn, chịu đựng bao nổi vất vả về vật chất lẫn tinh thần,
mới thấy hết ý nghĩa vì nhiệm vụ được truyền trao bảo vệ và hoằng
dương chánh pháp của Ngài.
Ba mươi bảy năm thuyết pháp độ sanh, Lục
Tổ đã giúp cho kẻ ngộ đạo cao siêu rất nhiều từ vua, quan cho đến thứ
dân ở kinh đô cũng như ở chốn hoang dã. Những vị được nối pháp có
43 người; những vị mà chúng ta thường nghe nhắc đến trong sách thiền,
trong các câu chuyện về thiền như:
Thiền Sư Hành Tư, Hoài Nhượng, Huyền
Giác, Thần Hội, Pháp Hải, Quốc Sư Huệ Trung.
Thiền Sư Hoài Nhượng (667-744) truyền đến
Đạo Nhất (709-788). Thiền Sư Đạo Nhất truyền đến Hoài Hải (720-814),
Thiền Sư Hoài Hải truyền cho Vô Ngôn Thông (?-826) sang Việt Nam lập phái
thiền Vô Ngôn Thông, Thiền Sư Hoài Hải truyền đến Linh Hựu (751-853), đệ
tử của Linh Hựu là Huệ Tịch (804-899) lập ra phái thiền Qui Ngưỡng Tôn.
Cùng Ngài Hoài Hải truyền đến Hy Vận (?-850) có đệ tử là Nghĩa Huyền
(?-867) lập ra Lâm Tế Tôn. Kể từ Lục Tổ đến Ngài Vô Ngôn Thông là đời
thứ 4 và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch cùng Lâm Tế Nghĩa Huyền là đời thứ 5
thiền tông ở Trung Quốc đã sớm phân phái.
Còn Thiền Sư Hành Tư ( ?-740) truyền cho
Hy Thiên (700-790), Thiền Sư Hy Thiên truyền cho Duy Nghiễm (751-834), Thiền Sư
Duy Nghiễm truyền cho Đàm Thạch (728-841), Thiền Sư Đàm Thạch truyền cho
Lương Giới (807-869), Thiền Sư Lương Giới truyền cho Bổn Tịch (840-901).
Thiền Sư Bổn Tịch lập ra Tào Động Tôn.
Cũng là đệ tử của Ngài Hy Thiên là Đạo
Ngộ (747-816). Thiền Sư Đạo Ngộ truyền cho Sùng Tín (?), Thiền Sư Sùng
Tín truyền cho Huyền Giám (780-865), Thiền Sư Huyền Giám truyền cho Nghĩa Tồn
(822-908), Thiền Sư Nghĩa Tồn truyền cho Văn Uyển (?-949).
Thiền Sư Văn Uyển lập ra Vân Môn Tôn.
Ngài Nghĩa Tồn cũng truyền cho Sư Bị
(835-908), Thiền Sư Sư Bị truyền cho Quế Sâm (867-928), Thiền Sư Quế Sâm
truyền cho Văn Ích (885-958).
Thiền Sư Văn Ích lập ra Pháp Nhãn Tôn.
Phái của Ngài Hành Tư đến đời thứ Sáu
thì lập Tào Động Tôn, đời thứ Bảy lập Vân Môn Tôn và đến đời thứ
Chín lập ra Pháp Nhãn Tôn.
Phái Lâm Tế đời thứ 18 có Thiền Sư
Huệ Nam (1002-1069) ở Hoàng Long lập ra hệ phái Hoàng Long và Thiền Sư
Phương Hội (?-1054) ở Dương Kỳ lập ra phái Dương Kỳ hoàn tất việc lập
năm tôn và chia ngủ phái thiền của Tổ Huệ Năng ở Trung Quốc.
Ở Việt Nam phái thiền Vô Ngôn Thông cũng
là phái thiền của Ngài Huệ Năng thuộc hệ phái của Ngài Nam Nhạc Hoài
Nhượng.
Tào Động Tôn cũng có truyền đến miền Bắc nước
ta, còn miền Trung và Nam Lâm Tế Tôn có phái Nguyên Thiều và Liễu Quán nhưng
phái của Ngài Nguyên Thiều được truyền bá rộng rãi.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/017-huenang.htm
|
|