- Lương Võ Đế
- HT. Thích Trí Quang
Thắng lợi
chân chính là ở Phật giáo chứ không phải vũ khí - A DỤC
Nội điển lục nói :
"Lương vũ đế, vị Bồ tát bất tư nghị". Câu nói ấy
không phải vô cớ. Ấn Độ nếu không có hoàng đế A Dục thì đại thừa
Phật giáo khó phát huy một cách cực kỳ xán lạn, cũng như vậy nếu
Trung Hoa không có Lương Vũ Đế thì không thể có cái Phật giáo rực rỡ
ở đời Đường, đời Tùy, thâm nhập tư tưởng quần chúng, biến hóa tư
tưởng xã hội. Đó là những sự thật lịch sử.
Lại chính đời Lương Vũ Đế, Phật
giáo mới truyền bá qua Trung Hoa, nền tảng chưa vững chãi, trước sau lại
bị nạn Ngụy vũ, Châu vũ, nếu không có Lương Vũ Đế thì Phật giáo
khó mà tồn tại chứ đừng nói đến sự phát triển. Thống kỷ chép
"Khi nạn Ngụy vũ, có một vị dị tăng nói : Đông độ rồi đây sẽ
có một thánh vương xuất hiện, mười năm sau Phật pháp sẽ đại thịnh".
Mười năm sau quả có Lương Vũ Đế ra đời và niên hiệu Thiên giám thứ
ba, nhà vua cùng hàng vạn người tập trung tại điện Trùng vân tuyên bố
bỏ Đạo giáo :
"Nguyện làm cho ngày sau những
người đồng chân xuất gia truyền bá Chánh pháp, hóa độ hữu tình, cùng
được Đại giác. Thà ở trong Chánh pháp mà chìm đắm bể khổ, không muốn
quy y Lão tử để tạm được thần tiên !".
Vì vậy nên từ đó về sau dù ngồi
trên ngôi hoàng đế mà hạnh đồng sa môn : Ăn thì ăn chay và ngày chỉ một
bữa ; tế Giao tế Miếu thì chỉ dùng hoa quả, bánh trái. Từ vân Đại
sư, người đồng thời với Lương Vũ Đế, đã nói :
"Tế tự các thức thì theo tục
điển, cải cách thì theo khế kinh. Tục điển thì sát hại sanh linh, khế
kinh thì chỉ trọng từ bi. Trọng từ bi thì thành muôn đức, sát hại lắm
thì quả báo ở ba đường".
Thật ra Lương Vũ Đế có cố ý
làm hoàng đế không ? Cứ xem lời ông đây thì biết :
"Thống trị thiên hạ không
phải bản chí của tôi... Ai biết tôi không tham thiên hạ ? Chỉ người nào
làm được điều mà người khác không làm nổi mới biết tâm tôi mà
thôi !".
Cứ xem đó ta cũng đã có một
khái niệm về Lương Vũ Đế là người thế nào. Và bao nhiêu ngộ nhận một
cách mù quáng quanh ông cũng có thể tiêu tan hết. Bài này viết theo tài liệu
Hải Triều âm, mục đích cũng chỉ thêm cho sự tiêu tan ấy được rốt ráo
và biểu dương ra đây cái sự sáng chói của Lương Vũ Đế.
Cũng như Hoàng đế A Dục, Lương
Vũ Đế trước khi tín ngưỡng Phật giáo, ông là một người xây đắp
ngai vàng mình bằng tính mạng tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, sự tín ngưỡng
Phật giáo của Lương Vũ Đế là do chánh giải (lý giải giáo lý một
cách đúng đắn), chứ không phải mê tín. Ta cứ nghe ông tự thuật :
"Khi nhỏ tôi học Nho giáo,
nghiên cứu tứ kinh, tìm xét ngũ thư. Lớn lên, tôi học Đạo giáo, rõ biết
vô vi, tinh thông pháp thuật. Bây giờ học Phật pháp mới thấy như thái dương
trước các thứ ánh sáng. Nhờ Phật pháp, tôi mới rõ khổ tập, mới hiểu
nhân quả, không phủ nhận giá trị muôn loài bằng lý bình đẳng, quy nạp
chân như sự vật về lý vô sanh. Tâm lý chúng sanh khó duy nhất, nhưng thành
kiên cố chấp thì bị pháp tan. Qui nguyên không hai nẻo mà chí cực chỉ
viên dung. Phật giáo trước các giáo khác như đại thọ ngàn thước mà
cây cỏ chỉ bằng mầm mống của nó. Thiệt là mây lớn mưa lớn, cây co
tùy phần hấp thụ mà tươi tốt. Chỉ vì tâm trí sinh dị giải mà kết
quả có sai thù, nhưng sai thù không phải tác ý nên sâu cạn chỉ vì phân
biệt". - Tam giáo thi (dịch ý).
Xem đó thì thấy Lương Vũ Đế tín
ngưỡng Phật giáo là nghiên cứu tinh thông trước rồi sau mới tin. Lại,
đây nữa, trong Tịnh nghiệp phú, Lương Vũ Đế tự viết :
"Chính trị trên thì hôn bạo,
dân tình dưới thì loạn ly, đạo quân tử ẩn mặt, đường tiểu nhân lớn
thêm... Người ngay thẳng phải mất đầu, tôi trung dũng bị giết chóc, sắc
phục đồng nhà Tề mà đầu ai cắm thân ấy, ai cũng xưng mình là đế chúa
tôn cao, dối trá quần chúng, nghi hoặc lòng người.... Tôi phải phấn lực
đứng dậy san phẳng những kẻ ấy. Khi gian hùng đã trừ, dân tình hết
khổ rồi thì tôi định về vườn, cuốc rau lặt cỏ. Nhưng dưới vì
lòng người thúc ép, trên sợ lẽ phải, nên bất đắc dĩ phải nhận lấy
ngôi báu. Thiệt như bước xuống vực sâu, như đi trên băng mỏng... Đời
có kẻ dư luận so sánh tôi với Thang, Vũ. Nhưng Thang, Vũ là Thánh, tôi là
kẻ phàm phu. Tôi khi còn nhỏ vì chưa có chánh tín, chánh giải nên sát hại
sanh mạng, ăn thịt ăn cá, cho đến khi lên ngôi, sơn hào hải vị đầy dẫy,
nhưng trước cảnh đó, nhờ Phật pháp mà phải sa nước mắt, nghĩ rằng
đây là máu thịt của cha mẹ bà con mình, giận mình chưa xả thân cúng dường
họ được, bây giờ nỡ nào ngồi ăn. Nhưng chỉ tự làm, không cho ai hay.
Lâu rồi có người biết, thiệt lòng khuyên tôi, nhưng điều đó đâu phải
là chí trung đối với tôi. Tôi nghĩ thống trị thiên hạ không phải bản
chí của tôi. Lời Đỗ Thứ nói rất đúng : Cắt lòng quăng ra giữa đất
thì cũng chỉ là vài miếng thịt mà thôi. Nên ai biết được tôi không
tham thiên hạ ? Chỉ người nào làm được việc mà người khác không làm
nổi mới đủ điều kiện hiểu biết tâm tôi. Tôi xa lánh phòng thất,
không dùng thị thiếp cung tần đã hơn 40 năm nay". Cho nên Vũ cung
thật lục chép :
"Nhà vua ăn thì sơ bạc, mặc
thì gai vải, mùa lạnh mùa nóng đều như nhau. Ở thì một mình, không thị
vệ, không đồ chơi. Trước mắt chỉ trầm hương và pháp bảo. Lợi để
cho người mà tiết kiệm phần mình".
Thiệt là những lời tả thật. Đời
của Lương Vũ Đế như vậy nên thiệt không thẹn là con cháu của Tiêu
Hà, lương tướng nhà Hán.
Đương thời pháp sư Huệ Ước là
người đức cao trí cả, ngày mồng tám tháng tư nhà vua cầu thọ Bồ tát
giới với ngài. Kinh Phạm võng nói : "Người ở địa vị thống lãnh
một nước thì trước hết phải thọ Bồ tát giới đã". Nên đây
là tấm lòng chân thật của Lương Vũ Đế sau khi ông thọ giới :
"Tôi nghĩ nếu không thọ Bồ
tát giới thì làm sao có tâm từ bi, làm hạnh bình đẳng ? Vì vậy nên
tôi cho ức triệu sanh linh đều được sung sướng"./.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/018-vode.htm