...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Sir Edwin Arnold và thi phẩm
- "Ánh sáng Á châu"
- Thích Nguyên Tạng
Tác phẩm này được viết trong
một văn phong thuộc trường phái lãng mạn của thời nữ hoàng Victoria;
tuy vậy, tác phẩm vẫn giữ được phẩm chất đạo đức rốt ráo của một
người anh hùng theo cái nhìn của người Anh: tính ly dục, kết hợp với từ
bi, trí tuệ, chân thật và nhẫn nại.
Có thể nói ngay rằng đại đa số giới trí thức ở
phuơng Tây tìm đến với Phật giáo là nhờ đọc qua thi phẩm bất hủ
"Ánh sáng Á châu" (The Light of Asia, xuất bản lần đầu tiên vào năm
1879) của đại thi hào người Anh-Sir Edwin Arnold. Đây là một bản trường
ca gần năm nghìn câu phô diễn về cuộc đời tu tập và hành đạo của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngay sau khi xuất hiện trên thi đàn Âu châu,
tác phẩm đã lập tức chinh phục người đọc và đã được các nhà phê
bình văn học Tây phương hết lời khen ngợi đây là một tác phẩm văn
chương tuyệt tác của Anh quốc vào cuối thế kỷ thứ 19. Tác phẩm đã lập
tức thịnh hành tại Anh quốc và được chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng
trên thế giới (bản dịch Việt ngữ có tựa đề là "Ánh sáng Á
châu" dịch từ bản tiếng Pháp, do nhà Phật học - cư sĩ Đoàn Trung
Còn phiên dịch và Phật học Tùng Thư xuất bản lần đầu tiên năm 1965).
Sir Edwin Arnold, sinh ngày 10 tháng 06 năm 1832 tại làng
Grevessend, Anh quốc. Ông trải qua thời tiểu và trung học ở các trường dành
cho con cháu giới hoàng tộc và theo học Đại học Oxford, nơi đó ông đã
được trao giải thưởng Newdigate cho tập thơ đầu tay của mình. Sau khi tốt
nghiệp đại học, ông được cử đến làm hiệu trưởng trường Cao đẳng
Sanskrit thuộc chính quyền thực dân Anh ở Poona, Ấn Độ. Sau 5 năm phục vụ
về lĩnh vực giáo dục tại Ấn Độ, ông trở về Luân Đôn và trở
thành phái viên cho tờ Daily Telegraph vào năm 1861, và kể từ đó ông
làm việc cho tờ báo này đến cuối đời mình. Nhân danh tờ báo này, ông
Arnold đã kết hợp với tờ Newyork Herald, sắp xếp chuyến viếng thăm của
ông H. M. Stanley đến châu Phi. Trong chuyến viếng thăm này, ông Stanley đã
đặt tên cho một hòn núi ở phía Đông Bắc nước Congo. Ông Arnold cũng
được công nhận là người đầu tiên có ý tưởng về việc phóng một
con đường xe lửa trên toàn lục địa châu Phi.
Những năm sau này, ông sống một vài năm ở Nhật Bản,
nơi ông đã cưới người vợ thứ ba, một phụ nữ người Nhật. Giống
như các bạn nhà báo cùng thời ông, Lafcadio Hearne và Rudyard Kipling, ông
Arnold rất quan tâm sâu sắc đến con người và nền văn hóa của họ ở nước
ngoài, những nơi mà ông có được một đặc quyền sống và viết với sự
đồng cảm và nhạy cảm của ông đối với vùng đất ấy. Trong cuộc đời
làm công tác giáo dục và văn hóa của mình, ông đã được hoàng gia Anh
và nước Ấn Độ trao tặng nhiều huy chương cao quí. Ông cũng được các
hoàng đế ở Nhật Bản, Ba Tư, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ trao tặng nhiều huy
chương vì có công trong việc khôi phục lại nền văn hóa cổ đại.
Trong thời gian làm việc tại Ấn Độ, ông đã để tâm
nghiên cứu và học hỏi những tôn giáo lớn ở châu Á, đặc biệt trong
đó có đạo Phật. Ông đã nghiên cứu rất kỹ về cuộc đời và sự
nghiệp truyền bá chánh pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và cuối cùng
ông đã chuyển những ý tưởng đó trở thành thơ ca. Kết quả, thi phẩm
"Ánh sáng Á châu" đã ra đời. Ngoài tác phẩm độc đáo này, những
cuốn sách chính của ông là "ٮh sáng thế giới", in năm 1891 ;
"Những bài hát của người Ấn Độ", in năm 1875 ; "Biển
và đất liền", in năm 1891 ; và hai cuốn sách cuối cùng của ông
là nghiên cứu về đời sống và văn hóa của người Nhật Bản. Ông Edwin
Arnold đã cống hiến sức lực của mình cho sự nghiệp văn hóa của thế
giới cho đến ngày qua đời, ông mất vào ngày 24 tháng 3 năm 1904 tại Anh
quốc.
Tầm ảnh hưởng
của "Ánh Sáng Á Châu" trong đời sống tinh thần của người
phương Tây:
Nếu Phật tử ở nước
Pháp thích đạo Phật qua giáo lý nguyên thủy, thì ngược lại tín đồ tại
Anh thích đạo Phật qua tầm vóc anh hùng của chính Đức Phật Thích Ca, người
khai sáng ra đạo Phật. Sự khâm phục này được tìm thấy qua sự biểu lộ
tột độ của họ khi tác phẩm "Ánh sáng Á châu" (ASAC) ra đời.
Đây là một bản trường ca về Đức Phật, nó nói lên tiếng nói chung của
Phật tử Anh về đấng Cha lành. Tác phẩm này được viết trong một văn
phong thuộc trường phái lãng mạn của thời nữ hoàng Victoria ; tuy vậy
tác phẩm vẫn giữ được phẩm chất đạo đức rốt ráo của một người
anh hùng theo cái nhìn của người Anh : tính ly dục, kết hợp với từ bi,
trí tuệ, chân thật và nhẫn nại. Phẩm chất đặc thù tuyệt đối của
Đức Phật đã làm tăng thêm sự cảm nhận rằng Ngài giống như là một
đối thủ của Ấn Độ giáo, vì một người đã dám đi ngược lại với
mọi tục lệ, tập quán lâu đời của Ấn Độ giáo. Hơn thế nữa, sự
xuất hiện của Đức Phật qua tác phẩm của Arnold lại trùng khớp với
thời kỳ chống đạo Ky-tô tại Anh, đây là một nguyên nhân tạo ra sự
quyết định trở về với Phật Giáo của người Anh và Phật Giáo đã có
một chỗ đứng vững chắc trong nền văn hóa của dân tộc Anh.
Vào năm 1890, ông Allan Bennet (1872-1923) nhờ đọc tác phẩm
ASAC mà lập tức quy y theo Phật Giáo. Sau đó (1902), ông đã đến Tích Lan
để xuất gia tu học. Ông là một trong những người có công lớn trong việc
phát triển Phật Giáo tại Anh trong giai đoạn đầu. Năm 1905, ông R. T.
Jackson cũng giác ngộ nhờ đọc qua tác phẩm độc đáo này, và ông này đã
kết hợp với một người bạn mở một nhà phát hành sách Phật Giáo ở
gần công viên Regent-Luân Đôn, để phổ biến giáo lý ; và hai cư sĩ này
cũng thường xuyên tổ chức các buổi thuyết giảng về giáo lý đạo Phật
tại nhà sách của mình. Năm 1910, ông Frederic Fletcher cũng trở về với Phật
Giáo cũng qua tác phẩm này. Vị này đã đến Tích Lan xuất gia tu học và
về sau có nhiều đóng góp đáng kể đối với Phật Giáo tại nước nhà.
Trong khi đó tại Hoa Kỳ, đại tá Henry Olcott nhận được
quyển ASAC do bà Fannie Marie Adelaide (vợ của tác giả) gởi tặng. Ông
Olcott sau khi đọc xong tác phẩm và đã quyết định cho tái bản ngay tại
Boston (đến nay tại Mỹ đã có hơn tám mươi lần tái bản cuốn sách này
và có hơn một triệu bản được phát hành rộng rãi trên khắp nước Mỹ)
với một lời dự đoán về tác phẩm có một không hai này : "Quyển
sách sẽ tạo ra một sự kinh ngạc lớn lao cho mọi giới và những câu hỏi
tò mò sẽ nảy sinh trong tâm trí của các Ky-tô hữu nói chung". Sau khi
quyển sách xuất bản, ông F. B. Sanborn đã viết trong phần điểm sách
trên tờ Republican như sau : "Tính giá trị thơ ca của tác phẩm rất
lớn, nhưng nó có một giá trị khác lớn hơn là nó đã được phô bày
trong một tinh thần cảm thông của chân lý, hầu truyền cảm hứng lòng
nhân từ của Á châu cho thế giới..." Ngay cả Oliver W. Holmes đã hăng
hái một cách điên cuồng đến nỗi viết một mạch hai mươi sáu trang
trên tờ International Review để nói lên cảm nghĩ của ông về tập
thơ này, ông viết : "Tác phẩm cao quí đến nỗi nó không có cái khác
để có thể so sánh".
Với số lượng phát hành khổng lồ như thế, tác phẩm
ASAC được phổ biến khắp Hoa Kỳ đã minh chứng tài nghệ thơ ca của
Arnold. Sự khởi đầu của Arnold cũng giống như các học giả Phật Giáo
khác như Spencer Hardy, Samuel Beal và Max Muller, như ông ta đã thành công, bởi
vì ông ta đã viết một câu chuyện chứ không phải là một luận án hay một
bản chú giải. Đức Phật trong tác phẩm của ông là một sự tổng hòa của
một phần người anh hùng lãng mạn, một phần của con người bình thường
và một phần khác là một bậc thánh siêu phàm.
Cùng lúc viết cuốn ASAC, ông Arnold còn cho phát hành một tập
sách về tư tưởng Phật giáo mà ngày nay các học giả phương Tây rất
ưa thích. Ông đã chuyển thành thơ các giáo lý cơ bản về nghiệp, về Tứ
diệu đế, Bát chánh đạo... ; đồng thời, ông cùng với học giả Max
Muller và nhiều học giả khác nghiên cứu và truyền bá về giáo lý Niết
Bàn.
Ngoài việc viết sách báo và diễn thuyết, ông Arnold trước
sau vẫn là một người quan tâm đến sự phát triển của chánh pháp ở phương
Tây, ông từng khẳng định rằng : "Tôi thường nói và sẽ nói lại một
lần nữa và một lần nữa, rằng Phật Giáo và nền khoa học tri thức vĩ
đại". Giống như Pháp sư Dharmapala và đại tá Olcott, ông Arnold rất
đau lòng khi thấy những thánh tích Phật Giáo tại Ấn Độ bị lãng quên
và bị sử dụng sai mục đích. Ông đã viết nhiều bài báo đăng trên tờ
Daily Telegraph để kêu gọi thế giới quan tâm đến sự hủy diệt này.
Ánh sáng Á châu xưa nay vẫn được xem là một tác phẩm
hàng đầu có công trong việc truyền bá Phật Giáo ở thế giới phương Tây,
và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng như một ngọn hải đăng soi đường cho chúng
sanh trên khắp thế giới, ngõ hầu giúp họ tìm đến được bến bờ yên
vui, và đây cũng là mục đích chính khi ông Arnold bắt tay thực hiện tác
phẩm này. Điều này đã được ông đề cập trong phần kết luận của
thi phẩm Ánh sáng Á châu như sau:
Kể từ thành đạo Bồ đề
Bốn mươi chín tuế chợ quê giảng truyền
Thuyết bằng ngôn ngữ các miền
Chỉ cho mọi lối dứt phiền đắc anٮh minh Ấn Độ rọi lan٠châu rồi lại
khắp tràn năm châu
Gió lành bủa cả hoàn cầu
Sức linh phước huệ đổi sầu hóa vui.
(theo bản dịch của Đoàn Trung Còn, Sđd)
(Theo tài liệu
"Biographical Sketch of Sir Edwin Arnold",
Buddhist Society, May, 1997)
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/021-edwin.htm
|
|