- Leo Tolstoy và Đạo Phật
- Thích Nguyên Tạng
Thời
gian gần đây, có nhiều độc giả thắc mắc về mối liên hệ giữa Đạo
Phật và nhà văn Nga Leo Tolstoy. Vì họ phát hiện trong sách truyện của
ông có nhiều quan điểm rất tương đồng với giáo lý nhà Phật. Trong
bài viết này, dù chưa đầy đủ lắm, nhưng hy vọng nó sẽ cung cấp cho
độc giả một ít khám phá mới về mối liên hệ ấy.
Leo Tolstoy ( 1828-1910)
là một bá tước, nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng người Nga nổi tiếng
và được kính trọng trên khắp thế giới qua tác phẩm Chiến tranh và
hòa bình ( War and Peace), và học thuyết mang chính tên ông_ Học thuyết
Tolstoy. O⮧ ra đời vào ngày 28 tháng 8 năm 1828 trong một gia đình
quý tộc lâu đời tại điền trang Yasnaya Polyana, tỉnh Tula, Liên Xô (cũ).
O⮧ mồ côi cha lẫn mẹ từ lúc
lên bảy. Ở tuổi 16, ông bắt đầu học ngành luật và ngôn ngữ phương
Đông tại đại học Kazan. Năm 1847, bất mãn với lối giáo dục bằng cấp
tại nơi này, ông đã bỏ ngang việc học và trở lại quê nhà để quản
lý trang trại gia đình với 300 nông nô và sống một cuộc đời xa hoa quý
tộc. Năm 1851, theo lời khuyên của người anh ruột, ông gia nhập quân đội,
tham gia chiến đấu ở Caucasus và chỉ một năm sau được tuyển vào trung
đoàn pháo binh . Tại nơi đóng quân này đã để lại trong ông nhiều ấn
tượng đẹp đẽ và chính nó đã thúc đẩy ông bắt đầu sự nghiệp
văn chương của mình qua tác phẩm đầu tay:'' Câu chuyện hôm qua'' (
An Account of yesterday, Xb 1851), tiếp đó ông lại cho ra một loạt
sách hồi ký văn học về đời mình Thời thơ ấu ( Childhood, xuất bản
1852), Thời thiếu niên ( Boyhood, Xb 1854) và Thời Thanh niên (
Youth, Xb 1857).Nhà văn chiến sĩ này viết rất khỏe, ông viết mọi lúc mọi
nơi, từ đó đến suốt sáu mươi năm hoạt động văn học, dường như không
có ngày nào mà ông không viết. Sau khi giải ngũ ( năm 1856), ông bắt đầu
đi một vòng du lịch sang các nước Pháp, Thụy Sy,堦#221; và Đức. O⮧ đã viết nhiều truyện ngắn cho chuyến
đi này. Sau khi trở lại quê hương, ông mở trường dạy cho trẻ em nghèo
ở làng Yasnaya Polyana. Trong chuyến du lịch châu Aⵠlần hai ( 1860-61) ông
nghiên cứu ngành giáo dục của họ, rồi cho xuất bản tạp chí giáo dục
và nhiều loại sách giáo khoa. Năm 1862, ông kết hôn với Sonya A. Bers, một
phụ nữ xinh đẹp và có học, nhỏ hơn ông 16 tuổi, hai người đã sống
rất hạnh phúc và có với nhau 15 người con.
Leo Tolstoy luôn quan tâm và giúp đỡ
những nghèo khổ cũng như tìm cách cải thiện đời sống của họ. O⮧
đưa ra triết lý rằng con người đừng cố gắng tỏ ra khôn ngôn hơn cuộc
sống và tự nhiên. Lý thuyết này được thể hiện trong suốt Chiến
Tranh và Hòa Bình ( Voyni i mir /War and Peace, viết và Xb trong khỏang
1865-69), tác phẩm được xem là một bộ tiểu thuyết anh hùng ca hiện đại
trong lịch sử văn học Nga va văn học thế giới. Và sau đó nó đã nhanh
chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới ( bản tiếng Việt
do học giả Nguyễn Hiến Lê dịch và Lá Bối xuất bản lần đầu tiên
1969)
LEO TOLSTOY VÀ ĐẠO PHẬT:
Sau cuộc khủng hoảng tinh
thần cá nhân vào cuối thập niên 1870, Tolstoy đã cống hiến hết thời giờ
của mình cho văn học và nhu cầu tâm linh của mình. Những năm cuối đời
, ông sống một cuộc sống thanh bần, giản dị và thoát tục như một thầy
tu. O⮧ đã để lại toàn bộ gia sản cho vợ con, và cùng với người con
út thực hiện một chuyến đi vô định, nhưng vài ngày sau đó , ông bị cảm
lạnh và qua đời tại một nhà ga nhỏ ở Astapovo, thọ 82 tuổi. O⮧ đã
để lại cho chúng ta 160 tác phẩm các loại. Toàn bộ trong số này đều
đề cập đến đạo đức xã hội, triết học, tôn giáo, nhất là quan niệm
duy tâm về vấn đề sinh tử , về tình thương yêu đồng loại ...tất cả
đều gần gũi và phản ánh đúng với tâm tư và nguyện vọng của hàng vạn
con tim trên hành tinh này.
Tolstoy vốn xuất thân từ một gia
đình quý tộc và theo Chính Thống giáo. Nhưng ông là người có đầu óc
phóng khoáng, muốn nghiên cứu nhiều đạo giáo khác nhau để có lợi cho
đời sống tâm linh cũng như làm giàu có thêm vốn liếng trong lĩnh vực viết
văn của mình. Đặc biệt ông quan tâm và nghiên cưú giáo lý Đạo Phật
trong một thời gian dài và kết quả là giáo lý này đã ít nhiều ảnh hưởng
đến quan niệm nhân sinh quan của ông.
Trong thư viện riêng của ông, với
hơn 20 ngàn cuốn sách đủ các thể loại, chủ đề, người ta tìm thấy rất
nhiều kinh sách Phật giáo và triết học Aᮮ Điển hình trong các số đó
như Kinh Phật ( Buddhist Sacred Text) của Friendrich Max Mueller ( 1823-1900);
Đức Phật, cuộc đời, lời dạy và giáo đoàn của Ngài ( Buddha, His
life, His Teachings & His Order, xb 1881) của Hermann Odenberg, Lời dạy của
Phật ( the Gospel of Buddha của Paul Carus, Xb tại Mỹ 1896); Niết bàn,
câu chuyện triết học Phật Giáo ( Nirvana: A story of Buddhist Philosophy, của
Paul Carus, Xb tại Chicago 1896), quyển này được ông Boulanger dịch sang tiếng
Nga và ấn hành tại Mátxcơva năm 1901), Cuộc đời và lời dạy của Phật
( The Life and Teachings of Gautama Buddha, xb 1878) của nhà Phật học người
Anh Rhys Davids, A鮨 sáng á châu (The light of
Asia, xb 1879) của thi sĩ Edwin Arnold, Lời dạy của Phật ( The
Word of the Buddha, của Tỳ kheo người Đức Nyanatiloka,Xb tại Miến Điện
1907), đặc biệt trong số này có quyển Phật giáo: nghiên cứu và tài
liệu ( Buddhism: Studies and Materials, Xb tại St.Petersburg, Nga, năm
1887) tác giả là một nhà Phật học người Nga Ivan P. Minayev và một số Kinh
Tiểu Thừa ( Hinayana sutras) bằng tiếng Nga cũng do đạo hữu này chuyễn
ngữ và in tại Mátxcơva vào năm 1888. Người ta cũng tìm thấy nhiều đoạn
trích chép tay của Toltoy khi đọc qua những quyển kinh hệ Nikaya này.
Qua những tài liệu trên cho thấy rằng
Tolstoy đã biết đến Phật giáo từ đầu thập niên tám mươi của thế kỷ
thứ 19. Như vậy là ông biết và nghiên cứu đạo Phật qua tài liệu và
sách báo của hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học Tây Phương. Đặc biệt
là các kinh sách Phật giáo theo hệ tư tưởng Nam Truyền.
Điều đó cho thấy rằng quan điểm
của ông về tôn giáo và sự hiểu biết của ông chính yếu về PG chỉ giới
hạn trong khuôn khổ của giáo lý hệ Nikaya. Điều này đã thể hiện qua
tác phẩm Lời Thú Tội (Ispoved / A confession, xb 1882), bộc lộ nổi khổ
tâm, dằn vặt trước những cảnh bất công trên đường ông đi tìm chân
lý cho người nông nô nghèo khổ. Trong tác phẩm này ông đã viết về PG một
cách trực tiếp hơn những cuốn sách khác. Đặc biệt ông nhắc lại sự
kiện xuất trần của Thái tử Tất Đạt Đa, Người đã nhận ra được cái
hư ảo của tiến trình sanh, già , bệnh và chết của kiếp người mà
Ngài đã mạnh dạn từ bỏ cung vàng điện ngọc để đi tìm chân lý.
Tolstoy kết luận rằng : '' Thích Ca Mưu Ni đã nhận ra được cái chân tướng
không chắc thật của cuộc đời và ngài đã khẳng định rằng cuộc đời
là một bể khổ cần phải được thoát ly. Ngài đã minh chứng cho tất cả
thấy rằng chính nhờ vào sự nỗ lực không ngừng của bản thân mà ngài
đã thoát ra khỏi cảnh khổ đau của vòng sinh tử luân hồi, chứng thành
đạo quả và không bao giờ trở lại trạng thái khổ đau ấy nữa. Nhiều
nguồn tài liệu của AᮠĐộ đã đề cập đến sự kiện này''.
Trong quyển ''Những gì tôi
tin tưởng'' ( What I believe, xb 1883) Tolstoy đã nhấn mạnh rằng cái cốt
lõi của Đạo Phật là giúp cho con người nhận ra cuộc sống luôn ở
trong vòng khổ đau và cần phải được giải thoát. Trong tác phẩm ''Rồi
chúng ta phải làm gì ?'' ( What Then Must We Can Do ? xb 1886), trong phần ông
đề cập đến những nhà tư tưởng lớn, Tolstoy đã tôn vinh Đức Thích
Ca Mưu Ni là một nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử loài người.
Hai bản dịch Kinh Pháp Hoa tiếng
Anh: The Lotus of the True Law ( do đạo hữu H.Kern dịch và in 1884) và tiếng
Pháp : Le Lotus de la Bonne Loi( do ông Eugene Burnouf dịch và in 1840) không
tìm thấy trong thư viện của ông. Tuy nhiên, vào thời điểm ấy, rất có
thể ông đã biết đến sự hiện hữu của hai bản Kinh Đại thừa này
ở châu A Bởi vì trong thư viện của ông có một quyển khác viết bằng
tiếng Anh là Các lượm lặt từ những bài nghiên cứu Phật giáo: về
Hành Động và Tâm linh trong khu vực viễn Đông'' ( Gleanings in Buddhafields
Studies of Hand and Soul in the Far East, xb 1897) , quyển sách không được hoàn
hảo, vì bị mất một số trang. Nhưng ngay đầu chương bốn ta đã thấy
có một đoạn trích lấy từ Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát của Kinh
Pháp Hoa, được in nghiêng: Tôi rất kính trọng các bạn, không dám khinh
mạn và xem thường các bạn. Vì sao ? vì các bạn đang thực hành đạo Bồ
tát và sẽ được thành Phật'' ( I deeply revere you. I dare not slight and
contemn you. Wherefore? Because you all walk in the Bodhisattva-way and are to become
Buddha). Qua đây, ta thấy rằng, chắc chắn Tolstoy đã từng biết qua tư
tưởng của Kinh Pháp Hoa, một bộ Kinh được xem là vua trong các thứ kinh
( the king of all sutras) của hệ tư tưởng Đại Thừa Phật giáo.
Trên tinh thần đó, sự tương đồng
giữa những quan điểm về nhân sinh quan của nhà văn Nga vĩ đại này và
Kinh Pháp Hoa là điều không thể tránh khỏi, vì quan niệm chính của
Tolstoy khi viết văn là '' Vương quốc của Thượng Đế luôn ở bên
trong bạn'' ( God's kingdom is within you). Tolstoy cố gắng chuyển đạt thông
điệp rằng sự hạnh phúc đích thực của con người chỉ tuỳ thuộc vào
cái tiềm lực bên trong họ mà thôi, ngoài ra không gì
khác, điều này đã được Đức Thích Ca tuyên bố từ trước trong Kinh Pháp
Hoa : mọi người đều có tánh Phật và sẽ thành Phật''.
Sống an vui, không bạo độ讧, thương yêu và giúp đỡ mọi người ngay cả những kẻ
đối đầu với mình là những nguyên tắc cơ bản và đóng vai trò chính
trong triết thuyết đạo đức nhân sinh của Leo Tolstoy. O⮧ cũng cho rằng mục
đích của con người là muốn hạnh phúc và không ai muốn khổ đau là điểm
tối quan trọng cho đời sống con người. Nếu có một bản phân tích và
so sánh rõ ràng giữa Giáo lý nhà Phật và quan điểm nhân sinh quan của Leo
Tolstoy vào những năm cuối đời, nhất là qua các vở kịch sau cùng của
ông Sức mạnh của bóng tối ( the Power of Darkness, 1887), Đạo quả
của Giác Ngộ ( the Fruits of Enlightenment, 1889), Thây ma sống ( The
Living Corpse, 1910)…chắc chắn sẽ cho chúng ta nhiều điều lý thú ,
cũng như giúp ta biết rõ hơn về mối liên hệ giữa Leo Tolstoy và Phật
giáo./
Tổng hợp
theo các tài liệu :
- Echoes of Lotus Sutra in Tolstoy's Philosophy/
Dharma Work/ Japan/10-1998
- Russia & the former Soviet Union/ Cambridge
Press /Australia/ 1990.
- The Macmillillan Dictionary of Biography/ Barry
Tones / Australia/ 1989
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/023-leo.htm