- Thiền sư
Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva) và pháp Đại Thừa
- Trần Chung Ngọc
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thường được gọi ngắn gọn
là Kinh Pháp Hoa, là bộ Kinh Đại Thừa quan trọng và nổi tiếng của Phật
Giáo, vì chủ yếu của Kinh khẳng định, qua cái thấy biết của Đức Phật,
sự kiện là mọi người chúng ta, ai cũng có thể thành Phật; và chủ
nhãn của Kinh không ngoài cái hoài bão của Đức Phật khi thành Đạo: bày
tỏ cho chúng sinh thấy, nhận và nhập vào cái thấy, biết của Phật.
Kinh nguyên bản bằng tiếng Phạn. Có ít nhất là ba bản dịch
sang tiếng Trung Hoa, nhưng chỉ có bản dịch của Thiền sư Kumarajiva
(Cưu-Ma-La-Thập) là được truyền tụng rộng rãi. Thượng Tọa Thích Trí
Tịnh đã dựa vào bản này để dịch sang tiếng Việt. Tiểu sử của Thiền
sư Kamarajiva rất đặc biệt. Chúng ta có thể rút tỉa nhiều điều hay
trong đó. Cho nên, trước hết tôi xin tóm lược tiểu sử của Người để
cống hiến quý độc giả, tưởng không phải là chuyện vô ích.
Kumarajiva sinh năm 344. Cha là Kumarayana, con một viên chức
cao cấp Ấn Độ. Vì mộ đạo nên Kumarayana từ bỏ đời sống gia đình
tìm thầy học đạo, chẳng bao lâu nổi tiếng và được mọi người kính
trọng. Khi đi tới Kucha, một nước ở vùng Trung Á khoảng giữa Ấn Độ
và trung Hoa, Vua nước này ra tận biên giới đón và mời làm Quốc Sư. Vua
có người em gái trẻ đẹp tên là Jiva, tuổi vừa đôi mươi. Từ nhỏ
Jiva đã nổi tiếng thông minh. Lớn lên nàng không để mắt tới chàng trai
nào trong nước, nhưng khi gặp Kumarayana, nàng cảm thấy yêu ngay, và thầm
mong được lấy Kumarayana. Vua biết ý, ngỏ lời gả Jiva cho Kumarayana.
Kumarayana không từ chối.
Ít lâu sau Jiva thụ thai. Trước đó, Jiva thường tới chùa
trong vùng nghe các cao Tăng thuyết Pháp tuy nàng không hiểu mấy. Nhưng từ
khi có mang Kumarajiva tự nhiên nàng thông hiểu Phật Pháp và trí tuệ mở
mang nhanh chóng. Một vị A-La-Hán đương thời nhận xét: đứ顠con trong bụng Jiva không phải là một đứa trẻ thường,
mà sẽ là một bậc đại trí, có thể sẽ giống như Xá Lợi Tử, đệ tử
đại trí của Đức Phật. (Trường hợp này tương tự như trường hợp của
bà mẹ Xá Lợi Tử: khi có mang Xá Lợi Tử, bà luôn luôn thắng trong những
cuộc tranh luận Phật Pháp cùng người anh, mặc dầu trước đó lần nào
cũng thua. Đây không phải là chuyện hoang đường vì khoa Tử Vi của Trần
Đoàn đã chứng tỏ, và chúng ta cũng thấy trong nhiều trường hợp, con cái
sinh ra rất có ảnh hưởng đến đời sống và công việc làm ăn của cha
mẹ. TCN)
Sanh Kumarajiva được ít lâu, bà Jiva ngỏ ý muốn xuất gia,
nhưng Kumarayana không ưng thuận. Vài năm sau, bà sanh thêm một trai. Vì đã
từ lâu thấu hiểu những chân lý về khổ, vô ngã, vô thường, và tánh
Không của vạn Pháp, bà Jiva quyết định từ bỏ đời sống gia đình, khi
Kumarajiva mới có 7 tuổi,. Kumarayana trước cũng có ý định đi tu, nhưng từ
khi được vợ đẹp, chức cao, nên bỏ ý định trên. Không những thế,
ông còn ngăn cản ý muốn tu hành của vợ. Bà Jiva bèn lập nguyện: nếu
không được đi tu thì chết, và bà bắt đầu tuyệt thực. Mới đầu,
Kumarayana không để ý, nhưng khi thấy vợ quá yếu sau 6 ngày nhịn ăn, ông
hứa: "muốn xuất gia cũng được, nhưng hãy ăn để phục hồi sức khỏe
đã." Sợ chồng lại đổi ý, bà Jiva nói: "Hãy mời Pháp sư đến
xuống tóc cho tôi trước." Không biết làm sao, Kumarayana đành phải mời
vị Phương Trượng của Chùa mà Jiva thường tới nghe thuyết Pháp đến thế
phát cho bà. Toại nguyện rồi, bà Jiva chuyên tâm tu học Phật Pháp với tấm
lòng chân thành, chẳng bao lâu sau đắc quả A-La-Hán. Vì là em Vua nên bà
được nhiều người cúng dường đầy đủ mọi vật. Không muốn sống
trong tiện nghi vật chất, thành tâm trau dồi Phật Pháp, bà dắt Kumarajiva
lang thang hành đạo, dù chồng bà không đồng ý. Bà thường dẫn con đến
Chùa nghe Pháp và lễ Phật. Tuy mới 7 tuổi, Kumarajiva thấy mọi người thắp
hương lễ Phật cũng thắp hương lễ Phật. Năm Kumarajiva 9 tuổi, bà Jiva
đưa con đến học đạo với một Pháp sư theo Tiểu Thừa (Phật Giáo
Nguyên Thủy) nổi tiếng tên là Bandhudatta. Kumarajiva học rất chăm, buổi sáng
học và chép Kinh, buổi chiều tụng lại theo trí nhớ những Kinh chép buổi
sáng.
Năm Kumarajiva 12 tuổi, hai mẹ con trở về Kucha. Khi qua miền
núi phía Bắc Kusan, một vị A-La-Hán xem tướng Kumarajiva và nói: "Hãy
săn sóc chàng sa-di này cẩn thận; nếu tới 35 tuổi mà hắn không phá giới
thì hắn sẽ hoằng dương Chánh Pháp, cứu độ vô số chúng sinh như Tứ Tổ
Upagupta bên Ấn Độ". Trên đường về, hai mẹ con ngừng ở Kashgar,
trong một ngôi Chùa. Tại đây, Kumarajiva được Phương Trượng giảng Pháp
và ngộ được lý Vạn Pháp Qui Nhất, mọi sự vật đều do sự biến hiện
của Tâm. Kumarajiva ở lại Kashgar để học về Luận A-Tỳ-Đạt-Ma, và cũng
chính tại đây Kumarajiva được tiếp xúc với Giáo Pháp Đại Thừa và nhận
thức được rằng: Tuy Tiểu Thừa tuyệt diệu nhưng Đại Thừa lại là
cái tuyệt diệu trong cái tuyệt diệu.
Vua xứ Kucha phái sứ giả đến triệu hồi hai mẹ con bà
Jiva trở về Kucha. Năm 20 tuổi, Kumarajiva chính thức làm lễ xuất gia trong
cung Vua và học đạo với Vimalaksha, một vị cao Tăng nổi tiếng về hạnh
giữ giới luật, từ Kashmir tới. Trước khi đi Ấn Độ để được ấn
chứng đắc quả A-La-Hán bậc ba (Bất hồi), bà Jiva thấy con có duyên với
Trung Hoa nên nói: "Giáo Pháp Phương Đẳng (nối Tiểu Thừa với Đại
Thừa) rất thâm thúy, cần được truyền bá rộng rãi ở Trung Hoa. Con có
khả năng làm việc đó, nhưng cá nhân con sẽ không được gì. Con nghĩ
sao?" Kumarajiva trả lời: "Hạnh nguyện của Bồ Tát là quên mình,
lợi người. Nếu con có thể truyền đạo giác ngộ chúng sanh thì dù phải
nhẩy vào vạc dầu con cũng không ngại."
Kumarajiva ở Kucha hai năm, chú tâm học hành các Kinh Đại
Thừa. Vua xứ Kucha, nguyên là bác của Kumarajiva, cho làm một cái ngai sư tử
bằng vàng để Kumarajiva ngồi thuyết Pháp. Nhưng Kumarajiva lại có ý muốn
rời Kucha, vì muốn truyền Pháp Đại Thừa cho thầy cũ của mình là
Bandhudatta. Điều này làm Vua phật ý vì cho rằng Kumarajiva không đáp lại
sự đãi ngộ của Vua. Tình cờ, Bandhudatta đến biên giới xứ Kucha. Vua
và Kumarajiva ra tận nơi đón. Vua hỏi: "Vì duyên cớ gì mà ngài từ nơi
xa xôi tới đây?" Bandhudatta đáp: "Trước hết, bần tăng nghe tin
đệ tử của bần tăng đã đại giác; thứ đến, bần tăng nghe tin bệ hạ
tích cực hoằng dương Đạo Pháp nên bần tăng muốn được yết kiến."
Kumarajiva rất vui mừng được gặp thầy cũ, bèn thuyết
Pháp Đại Thừa cho thầy nghe. Nghe xong, Bandhudatta hỏi: "So với Tiểu
Thừa thì Đại Thừa có lợi ích đặc biệt gì?" Kumarajiva đáp: "Đại
Thừa chủ trương vạn Pháp đều Không, Tiểu Thừa còn chấp vào danh tướng."
Bandhudatta bác: "Đại Thừa nói về Không, nhưng không chỉ là không,
không có gì cả. Nếu mọi vật đều không thì học cái không để làm
gì?" Kumarajiva giảng: "Trong cái Không có cái Có, trong Chân Không
có Diệu Hữu, trong Diệu Hữu có Chân Không. Đại Thừa là Giáo Pháp rốt
ráo, không như Tiểu Thừa bó buộc trong khuôn khổ danh tự vì vậy mà
không dẫn tới giải thoát hoàn toàn." Bandhudatta nói: "Ta có một
thí dụ về cái Không của Đại Thừa: Một người điên yêu cầu người
thợ dệt dệt cho một tấm lụa. Người điên chê tấm lụa thứ nhất
không được tinh xảo, chê tấm thứ hai vẫn còn thô, và tiếp tục chê đến
khi người thợ dệt chịu không nổi, đến với tay không, dang hai tay và
nói: "Đây là tấm lụa tinh xảo nhất." Người điên nói: "Nhưng
chẳng có gì trong đó cả." Thợ dệt nói: "Tấm lụa này tinh xảo
đến chính tôi là thợ dệt khéo mà cũng không nhìn thấy nó." Người
điên hài lòng và hậu đãi người thợ dệt. Nhiều thợ dệt khác bắt chước
lừa người điên lấy tiền. Giáo Pháp Đại Thừa cũng vậy: Ngươi nói
trong cái không có cái có, nhưng chẳng ai thấy cái có đó ở đâu cả."
Kumarajiva đáp: "Không phải vậy, không phải vây." và tiếp tục giảng
về cái Không và Diệu Hữu trong Chân Không, hơn một tháng sau mới thuyết
phục được Bandhudatta. Sau cùng, Bandhudatta nói: "Ta muốn lễ ngươi làm
thầy." Kumarajiva đáp: "Ngài làm thế sao được? Đệ tử đã lễ
thầy làm thầy rồi, sao thầy có thể lễ đệ tử làm thầy được."
Bandhudatta nói: "Vấn đề đó không đáng để ý. Ta là thầy Tiểu Thừa
của ngươi, ngươi là thầy Đại Thừa của ta. Như vậy cả hai đều có
Tiểu Thừa và Đại Thừa để theo." Kumarajiva bèn nhận Bandhudatta làm
đệ tử.
Danh tiếng Kumarajiva càng ngày càng nổi. Năm 384 ngài được
mời tới Trung Hoa, ở tại miền Bắc nước này hoằng dương đạo Pháp. Năm
402 Vua mời ngài về kinh đô Tràng An và phong chức quốc sư. Ngày ngày,
hàng ngàn tăng ni tới nghe ngài thuyết Pháp. Trong hơn 10 năm ở Tràng An,
ngài dịch 72 tác phẩm Phật Giáo từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa. Năm
413, ngài tịch, thọ 69 tuổi.
Trên đây là sơ lược tiểu sử Kumarajiva, vị cao Tăng có
công dịch rất nhiều Kinh điển Phật Giáo sang tiếng Trung Hoa, nhờ đó
mà Việt Nam chúng ta cũng gián tiếp được hưởng cái gia tài quý báu
trên. Đọc tiểu sử ngài, chúng ta có thể rút tỉa vài điều như sau:
-- Như được viết trong Kinh 42 Chương: "Rất khó bố
thí khi nghèo, rất khó học Đạo khi giàu." Cha của Kumarajiva trước đã
có ý định xuất gia tu hành, nhưng khi được vợ đẹp, chức cao, bèn
quên hết cả. Điều này cho thấy, không phải ai cũng có thể tu hành. Chỉ
những người có căn trí đặc biệt mới có thể theo được con đường
"tri hành hợp nhất". Biết mà không thực hành cũng như không biết
vì tất cả chỉ là cái biết vay mượn. Những ai tự cho mình biết nhiều
về Phật Giáo hãy tự đặt cho mình một câu hỏi: "Trả lại cái biết
của ta cho sách vở, tai nghe, mắt thấy, ta còn lại cái gì?" Ngoài ra,
nếu hàng cư sĩ chúng ta có thấy vị tu sĩ nào phá giới vì không cưỡng
được những sự cám dỗ vật chất ở ngoài đời thì cũng đừng nên
khó chịu vì đó là thế gian thường tình. Nhưng điều này không có nghĩa
là chúng ta chấp nhận và dung dưỡng những tác phong trái ngược với tiêu
chuẩn tu hành của các tu sĩ trong Phật Giáo. Chúng ta đều biết, trong Phật
Giáo, vấn đề tác phong, đạo đức, giới hạnh của các tu sĩ đứng hàng
đầu. Vai trò hộ Pháp của giới cư sĩ bao gồm nhiều phương diện đặc
biệt là giúp phương tiện vật chất để các bậc tu hành yên tâm tu
thành Chánh Quả. Nhưng nếu bậc tu hành nào lại chìm đắm trong những cám
dỗ vật chất thì bổn phận của hàng cư sĩ là phải khuyến cáo và tìm
biện pháp chấm dứt sự chìm đắm này. Không ai có thể chê cười những
người vì lý do này hay lý do khác, hoàn tục sống một cuộc đời bình thường.
Nhưng không ai có thể chấp nhận và dung dưỡng những người tu hành mà
tác phong và đạo đức tôn giáo trái ngược với giới hạnh của đoàn thể
Tăng Già. Kinh Pháp Cú, câu 9, nói rõ rằng: "Mặc áo cà-sa mà không rời
bỏ những điều uế trược (tham dục), không thành thật khắc kỷ, thà chẳng
mặc còn hơn."
-- Jiva quả là một bà mẹ tuyệt vời, có ảnh hưởng không
ít trên thành quả của Kumarajiva. Bà tu tập với tấm lòng chân thành và cương
quyết, những điều kiện tất yếu để đạt được kết quả trong vấn
đề tu tập. Đây chính là cái dũng trong Phật Giáo.
-- Kumarajiva tuy thông minh nhưng cũng học Phật rất chăm.
Điều này cho thấy trí thông minh cùng với sự chăm chỉ sẽ đưa tới thành
công trong bất cứ lãnh vực nào, không chỉ giới hạn trong việc học Phật.
-- Tứ Tổ Upagupta tu tập trong một hang đá, nhưng người
đến học Đạo rất đông. Mỗi khi độ được một người, ngài lại bẻ
một que tre để trong hang. Về sau hang có đầy những que tre chứng tỏ ngài
đã độ được vô số người. Điều này chứng tỏ những ngôi Chùa nguy
nga tráng lệ không hẳn là điều kiện tất yếu để truyền bá Đạo Pháp
hoặc độ chúng sanh.
-- Hiển nhiên người xưa coi cái Ta rất nhẹ, và sự hiểu
biết của các bậc cao Tăng là sự hiểu biết chân thực. Người xưa coi
Đạo làm thầy, gặp người Đạo cao hơn là có thể cúi lạy làm thầy
và không hề quan tâm đến chức tước, địa vị, hay uy tín của chính
mình. Nếu không, Bandhudatta không bao giờ lại tôn đệ tử làm thầy Đại
Thừa của mình.
Đọc tiểu sử Kumarajiva, có một điểm cần phải khai triển.
Nếu không, vấn đề không được rõ ràng. Tôi chắc rằng, sẽ có nhiều
người thắc mắc: "Kumarajiva giảng thuyết những gì mà mãi hơn một
tháng sau mới thuyết phục thầy cũ là Bandhudatta theo Đại Thừa?" Tôi
phải nói ngay là tôi không đủ khả năng để giải đáp thỏa đáng thắc
mắc này, vì đọc tiểu sử của Tam Tạng Pháp Sư Kumarajiva tôi chỉ biết
tổng quát như trên chứ không biết thêm chi tiết nào khác. Tuy nhiên, ít
ra, chúng ta cũng có thể biết chắc được rằng, Kumarajiva đã thuyết giảng
những Kinh Đại Thừa và chủ đề giảng thuyết của Kumarajiva cho
Bandhudatta là CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU, nền tảng của tất cả tư tưởng Đại
Thừa. Theo ý tôi, thời gian hơn một tháng không phải là lâu, và
Banbhudatta phải là bậc có căn trí thượng thặng mới có thể lãnh hội
được tinh yếu của tư tưởng Chân Không Diệu Hữu trong một thời gian
ngắn như thế.
Sau đây, tôi xin mạo muội khai triển chủ đề Chân Không
Diệu Hữu để chúng ta cùng nhau học hỏi một giáo thuyết có thể nói
là cao siêu, khúc mắc nhất của Phật Giáo. Đây là điều cần thiết vì
chúng ta đã biết, chính quan niệm "Không" trong Phật Giáo đã là một
bức tường thành trí thức ngăn cách trí tuệ giới hạn của một số người
ngoại đạo trong việc tìm hiểu Phật Giáo. Trí tuệ của những người này
ở mức của Bandhudatta ở thế kỷ 4, lúc đầu khi người đưa ra thí dụ
về người điên với người thợ dệt để bác bỏ triết lý "Vạn
Pháp Đều Không" của Đại Thừa Phật Giáo, do đó họ đã xuyên tạc
giáo lý cao siêu này của Phật Giáo, cho đó là chủ nghĩa hư vô hoặc
tiêu cực (Xin đọc Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng của John Paul II, Hành Hương
Đất Phật của Phan Thiết v..v..). Khi xưa Bồ Tát Long Thọ đã ý thức
được vấn đề này cho nên Người nói: "Chấp có thì còn có thể chữa
được, chứ chấp không thì thật là hết thuốc chữa". Và cũng vì vậy
mà các Tổ rất dè dặt khi giảng triết lý "Không" cho đệ tử
trước khi đệ tử đủ trình độ, kiến thức cũng như tu tập, vì sợ đệ
tử không lãnh hội được triết lý này và chấp một cách sai lầm vào
cái Không trong Phật Giáo.
Tư tưởng Chân Không Diệu Hữu bắt nguồn từ Kinh Bát
Nhã, bộ Kinh tối cổ và căn bản của Đại Thừa, và sau đó, các Kinh, Luận
như Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Đại Thừa Khởi Tín
v..v.. đều dần dần khai triển phương diện Diệu Hữu trong Chân Không.
Muốn tìm hiểu quan niệm Chân Không Diệu Hữu trước hết
chúng ta cần hiểu thế nào là Chân Không trong Phật Giáo, rồi từ đó tiến
đến việc tìm hiểu cái Có trong cái Không mà thuật ngữ Phật Giáo gọi
là Diệu Hữu trong Chân Không. Quan niệm trên có thể tóm tắt như sau:
"Hành giả phải tu tập để có được trí tuệ Bát
Nhã, nghĩa là trí tuệ đưa tới sự nhận thức sâu sắc về thực tướng
củ mọi sự sự vật vật. Thực tướng của mọi sự vật chính là tính
Không, và sự thấu suốt tính Không này (do học và tu tập Đạo) sẽ tạo
thành một sức sinh hoạt, hoạt động tự do, không bị ngăn ngại (để hành
Đạo)."
Đây là lập trường Chân Không Diệu Hữu của Kinh Bát
Nhã.
Tìm hiểu quan niệm về Chân Không hay Tính Không trong Phật
Giáo, chúng ta vấp phải một trở ngại. Đó là: Thấy được Tính Không của
mọi sự vật thì tương đương với thấy được Phật Tánh. Nhưng Phật Tánh
thì chỉ có thể thực chứng chứ không thể nghĩ bàn, do đó, người ta không
thể định nghĩa Tính Không, bởi vì làm như thế là đặt Tính Không vào
một giới hạn, trong khi thực thể của Không siêu việt mọi ngôn từ, giới
hạn, Tuy không thể định nghĩa được Tính Không, nhưng các vị cao Tăng
đắc Đạo (đã thực chứng được Tính Không của mọi sự vật), vì muốn
dẫn dắt chúng sanh trên con đường giải thoát (chuyển cái Không thành
cái Có kỳ diệu) , đã bắt buộc phải dùng ngôn từ thông thường để mô
tả phần nào Tính Không. Trong phương diện mô tả này, tuy không thể khẳng
định thế nào là Không, nhưng chúng ta có thể khẳng định những gì
không phải là Không.
-- "Không" trong Phật Giáo không có nghĩa là không
có thực, thí dụ như lông rùa, sừng thỏ.
-- "Không" cũng không phải là "không vắng"
hay hủy diệt, nghĩa là trống rỗng hay trước có bây giờ không còn nữa,
thí dụ như: trong phòng này trước có nhiều đồ đạc bây giờ trống chơn,
không có gì, hay ông A, bà B, trước sống nay chết đi rồi, không có nữa.
Vậy thì Phật Giáo muốn nói gì khi bảo mọi sự vật là
"Không"? Tôi xin đưa ra đây vài lối giải thích nhưng sẽ không
đi vào lý luận chi tiết để giải thích những lời giải thích ấy.
-- Vì mọi sự vật luôn luôn thay đổi, ngay cả trong khoảng
thời gian ngắn nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng được, nên chúng
là Không. Ở đây, Không đồng nghĩa với quan niệm "Vô Thường"
trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
-- Vì mọi sự vật đều do duyên sinh nên chúng là Không.
Không ở đây có nghĩa là không có tự tính, nghĩa là tính tự túc, tự tồn
tại, độc lập, không tùy thuộc vào bất cứ cái gì khác. Không có tự
tính trong Kinh Bát Nhã chỉ là sự mở rộng của thuyết "Vô Ngã"
trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
-- Vì thế giới Ta Bà chỉ là tổng thể của Cộng Nghiệp
và là dự phóng của Tâm, chịu theo luật biến diệt nên mọi sự vật là
Không. Đây là luận cứ của Duy Thức Tông theo đó một vật chỉ hiện hữu
đối với những sinh vật sống trong cùng một cảnh giới, danh từ khoa học
gọi là có cùng tần số giao cảm (do cộng nghiệp).
Những lời giải thích trên chỉ cho chúng ta một ý niệm
khái quát về tại sao mọi sự vật là Không chứ không cho chúng ta biết
cái Không là gì. Cho nên chúng ta không thể chấp vào cái Không này mà coi
Không như là một cái gì đó, bằng cách nào đó, xuất hiện ở đâu đó.
Nói một cách khác, chúng ta phải phủ nhận ngay cả chính cái Không này,
vì nếu chúng ta nhận rằng có cái Không, chúng ta đã tự mâu thuẫn với
chính những điều giải thích trên về tính Không. Chính cái Không của
Không này mới tương đương với chân lý chung cùng của mọi sự sự vật
vật. Đây chính là quan niệm Chân Không Tuyệt Đối, sự siêu việt rốt
ráo, vượt khỏi mọi Pháp và mọi ý niệm mà Phật Giáo thường cho là:
không thể nói ra hay không thể nghĩ bàn (bất khả thuyết hay bất tư nghị:
Kinh Duy Ma).
Một câu hỏi được đặt ra là: "Nếu Không không thể
nghĩ bàn thì cái Có ở đâu ra mà gọi là Diệu Hữu?" Đây có lẽ là
điểm khó hiểu và khúc mắc nhất trong thuyết Chân Không Diệu Hữu của
Phật Giáo. Bởi lẽ, theo nguyên tắc, hành giả phải thực chứng được cái
Không tuyệt đối rồi mới thấy sự thể hiện của cái Có gọi là Diệu
Hữu. Tuy nhiên, chúng ta cũng có nhiều cách lý luận để trình bày quan niệm
Diệu Hữu trong Chân Không.
-- Lý luận theo khoa học, chúng ta có thể nói rằng: Diệu
Hữu ở ngay trong Chân Không và chưa bao giờ rời cái Không. Thật vậy, hai
phủ định liên tiếp cho ta một xác định: vì chính cái Không cũng là
Không nên Không Không trở thành Có.
-- Theo triết lý về Nhị Đế của Bồ Tát Long Thọ thì:
Chính vì Không mà mọi sự vật (Vạn Pháp) có thể thành lập được. Điều
này có nghĩa là: Vì mọi vật là Không nên chúng mới có thể hiện hữu.
Bởi lẽ, nếu chúng không phải là Không, nghĩa là có tự tính, tính cố
định, độc lập v..v.. thì không thể có bất cứ sự thay đổi nào,
không có gì có thể sinh ra, không có gì có thể tiến bộ, mọi cố gắng
sẽ trở nên vô ích. Do đó, quan niệm Chân Không của Bát Nhã là kết quả
của sự quán chiếu Đệ Nhất Nghĩa Đế (Chân Đế) và được coi là
chân lý chung cùng. Nhưng chính cái Không cũng là Không rồi, vậy thì trở
lại cái thế giới giả danh (Tục Đế) để diệu hữu hóa nó, nghĩa là nắm
giữ được Chân Đế nhưng không quên sự hiện hữu của Tục Đế. Và đây
chính là Trung Đạo.
Những lý luận triết lý như trên thường là trừu tượng,
khó hiểu. Để bạn đọc có một khái niệm về một khía cạnh nào đó của
Chân Không Diệu Hữu tôi xin lược kê vài sắc thái của Chân Không Diệu
Hữu:
-- Chân Không là tất cả mọi sự sự vật vật đều không
có tự tính, Diệu Hữu là sự tồn tại của Vạn Pháp dù vạn Pháp đó
không có tự tính.
-- Chân Không là kết luận của vọng tâm duyên sinh quan. Diệu
Hữu là cảnh giới đã diệt trừ vọng tâm, làm sáng tỏ thể tướng của
tịnh tâm.
-- Chân Không là: Trên cầu đạo Bồ Đề (Kinh Pháp Hoa: Thường
Bất Khinh Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát), Diệu Hữu là: Dưới hóa độ chúng
sanh (Kinh Pháp Hoa: Quán Thếꠦ#194;m Bồ Tát)Kinh Duy Ma Cật: Tìm Đạo Giác
Ngộ (Chân Không) ngay trong Phiền Não (Diệu Hữu)
-- Đạo Bồ Tát chủ yếu lấy sinh hoạt tại gia (Diệu Hữu)
làm cơ sở tu hạnh Bồ Đề (Chân Không).
-- Lục Độ Ba La Mật là phương tiện đi tới trí tuệ
Bát Nhã (Chân Không), và là yếu tố không thể thiếu để tạo thành thế
giới (Diệu Hữu).
-- Bát Nhã xây dựng trên cơ sở Tâm Vô Sở Đắc (Chân
Không) để hoàn thành các việc đạo đức xã hội (Diệu Hữu)
Tôi đã viết khá nhiều về Chân Không Diệu Hữu mà thực
ra là không viết gì cả. Bởi vì, cốt tủy của tư tưởng Chân Không Diệu
Hữu trong Phật Giáo không phải là những lý luận vẩn vơ thuần trí thức.
Chúng ta biết rằng, trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã quở A-Nan Tôn Giả
là: "ông nghe nhiều, hiểu rộng, nhớ lâu, nhưng không chịu tu tập
nên chẳng đi đến đâu, tâm còn chưa rõ". Tu tập đây không phải là
gõ mõ, tụng Kinh mà là phải quán chiếu những điều Phật truyền lại
qua kinh nghiệm bản thân của chính Đức Phật. Then chốt của vấn đề là:
những quan niệm về Chân Không Diệu Hữu không phải là những quan niệm
triết lý hay chủ thuyết mà là những đề tài Thiền Quán, có mục đích
giải thoát con người khỏi sự chấp về một ngã thể giả tưởng, nguồn
gốc của những tham muốn đưa tới sự khổ đau và hoang mang. Thật vậy,
Phật Giáo được biết là một tôn giáo của trí tuệ, nhưng trí tuệ này
không phải là tập hợp những kiến thức thu thập được trong quá trình
học hỏi để mở mang trí óc, mà là trí tuệ phát triển song song với những
phương pháp thực hành tu tập trong Phật Giáo như Thiền Định và Quán Chiếu.
Hiểu được Tính Không trong Phật Giáo một cách thuần
trí thức không phải là khó, nhưng hội nhập Tính Không đó vào trong cuộc
sống thì thật quả không phải là dễ. Điều này chỉ có thể đạt được
sau một thời gian tu tập, suy tư, quán chiếu v..v.., dài hay ngắn tùy theo căn
trí mỗi người. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức được đời sống thật
là diệu dụng tuy bản thể của nó là Không chúng ta mới có thể tự do
hành động theo những chiều hướng phục vụ chúng sanh. Mong rằng mọi hoạt
động của Phật tử chúng ta đều hướng theo mục đích này nhắm tới sự
hỗ trợ cho niềm tin là: sau cùng mọi người trên thế gian này đều sống
trong cảnh an lạc và hạnh phúc.
- Trần Chung Ngọc
- Phật Lịch 2544
-
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/034-cuu-ma-la-thap.htm