Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Trí Khải
người sáng lập tông phái đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc
Phương Quang Hoa; Thích Đồng Ngộ dịch

 

1. Nước mất nhà tan, về nương cửa Phật :

Ngài họ Trần, tự là Đức An, sanh vào năm Lương Đại Đồng thứ 4 (538). Tổ tiên Ngài vốn người Hứa Xương, Hà Nam. Cuối đời Tây Tấn, do tránh loạn, nên tổ tiên đến lập nghiệp ở Hoa Dung, Hình Châu. Cha Ngài là Trần Khởi Tổ, vốn là một người văn võ song toàn. Trong năm Thiên Giám (502 - 519), Lương Tương Trần Vương Tiêu Dịch, lúc này đang cai quản Hình Châu, từng mời ông làm Tân khách. Trong quá trình giúp Tiêu Dịch dựng nên Đế nghiệp, Trần Khởi Tổ được phong Hầu.

Tiêu Dịch là con thứ 7 của Lương Vũ Đế. Quan tước khi ông làm Thứ Sử Hình Châu là Sứ Trì Tiết, Đô Đốc Hình Ung Tương Ty Trình Ninh Lương Nam Bắc Tần Cửu Châu Chư Quân Sự, Trấn Tây Tướng Quân. Địa phận do ông quản lý gồm : Phía Đông kéo dài đến phần đất tiếp giáp giữa tỉnh Hồ Bắc và Giang Tây ngày nay; phía Nam đến biên giới Hồ Nam, Vân Nam; phía Bắc đến Tương Dương; phía Tây đến Hán Trung thuộc Thiểm Nam. Trừ Tứ Xuyên do em ông là Tiêu Kỷ cai quản ra, những trấn trọng yếu thuộc thượng lưu sông Trường Giang đều nằm trong sự cai quản của ông. Từ đời Đông Tấn đến nay, chính quyền Giang Đông đều dựa vào thế lực quân sự của Dương Châu và Hình Châu mà tồn tại, phát triển. Nhưng vào niên hiệu Thái Thanh năm đầu (547), vì muốn tiếp nhận hàng binh của Tây Ngụy Hầu Cảnh, Lương Vũ Đế đã sai cháu mình là Tiêu Uyên Minh thống lãnh 50.000 quân chủ lực của Dương Châu đi đánh Bành Thành (Giang Tô, Từ Châu), nhưng đoàn quân này đã bị Đại tướng Đông Ngụy là Mộ Dung Thiệu đánh cho đại bại. Toàn bộ quân chủ lực dường như chết sạch. Thêm vào đó, năm Thái Thanh thứ 2 (548), Hầu Cảnh làm phản. Tháng 03 năm Thái Thanh thứ 3 (549), Cảnh đánh Kiến Khang, đến tháng 11 năm 551, Hầu Cảnh liên tiếp phế truất Tiêu Chánh Đức, Tiêu Cương, Tiêu Đống rồi tự lên làm Đế. Trong lúc hỗn loạn này, hạ lưu Trường Giang đã mất luôn hệ thống quân sự. Địa vị của Hình Châu lúc này trở nên quan trọng, và Tiêu Dịch bắt đầu có dã tâm xưng Đế.

Năm 548, nghe Kiến Khang bị vây, nhưng Tiêu Dịch không hề phái đại binh đến ứng cứu cha anh mình. Ngày mà Lương Vũ Đế bị vây, viện binh từ phía Tây kéo sang đến 2 - 3 chục vạn, nhưng Hình Châu chỉ phái đi vỏn vẹn 10.000 kỵ binh và bộ binh đến tiếp viện Kiến Khang. Sau đó, do dư luận phản đối, Dịch mới cho Đại tướng Vương Tăng Biện thống lãnh 10.000 thủy quân tăng cường tiếp viện. Nhưng không lâu, Đài Thành bị Hầu Cảnh đánh chiếm, đoàn thủy quân của Hình Châu bị Hầu Cảnh bắt hết, chỉ còn Vương Tăng Biện cùng mấy tướng lãnh chạy thoát về Giang Lăng. Lương Vũ Đế mất, con của Vũ Đế ngoại trừ Tiêu Cương đã bị Hầu Cảnh quản thúc, chỉ còn người anh thứ 3 của Tiêu Dịch là Tiêu Luân. Lúc Hầu Cảnh khởi binh làm phản, Luân giữ chức Bắc Phạt Đại Đô Đốc thống lãnh ba quân đánh Hầu Cảnh. Đến khi Đài Thành bị phá, Tiêu Luân chạy đến Cối Kê, rồi từ Cối Kê chạy sang Trình Châu(Võ Xương). Giờ đây, Luân là Minh chủ đối địch với Hầu Cảnh. Tiêu Dịch lại sai Vương Tăng Biện dẫn 10.000 thủy quân vây đánh Trình Châu hòng bắt Tiêu Luân. Luân phải chạy đến Hán Đông. Lúc này Tây Ngụy phái Đại tướng Dương Trung tiếp quản Hán Đông. Tiêu Dịch sai sứ đi gặp Tây Ngụy thương lượng cắt đất với mục đích nhờ Tây Ngụy tiêu diệt Tiêu Luân. Dưới sự chỉ huy của Dương Trung, quân Tây Ngụy đã bắt sống được Tiêu Luân, sau đó giết chết vất thây Luân bên bờ sông.

Sau khi Tiêu Luân chết, Thứ Sử Ích Châu Tiêu Kỷ vốn là em thứ 8 của Dịch lại trở thành đối tượng mà Dịch tiêu diệt. Từ năm Đại Đồng thứ 3 (537), Tiêu Kỷ được bổ nhiệm làm Đô Đốc của Ích Châu, Lương Châu ... cả thảy 13 châu, đồng thời làm Thứ Sử Ích Châu. Đến năm Đại Bảo thứ 3 (552), ông đã trấn thủ Lương Châu, Ích Châu cả thảy hơn 16 năm, có trong tay 40.000 tinh binh, 8.000 con ngựa. Sau khi Lương Vũ Đế mất, Tiêu Cương cũng bị giết (vào tháng 10 năm 551), ông lên ngôi xưng Đế, thống lãnh thủy quân đánh thẳng xuống Giang Đông mong về lại Kiến Khang khôi phục cơ nghiệp. Thấy Tiêu Kỷ xua quân về đông, Tiêu Dịch liền sai sứ thần đến Tây Ngụy xin binh đánh giết Tiêu Kỷ. Tây Ngụy liền phái đại quân đánh xuống Lương Châu, chiếm được Ích Châu. Tiêu Kỷ chưa đến được Giang Lăng thì hậu quân đã mất, phía trước lại bị Tiêu Dịch chận đánh. Sau đó không lâu, Dịch bắt sống được Kỷ và giết ông ở cửa khẩu Vu Giáp.

Tiêu Dịch thực hiện xong mục đích tiêu diệt thế lực anh em của mình, nhưng giờ đây, Lương Châu, Ích Châu đã mất, Tương Dương bị Tây Ngụy khống chế, Giang Lăng lại rơi vào nguy khốn. Lúc này, Hầu Cảnh dẫn binh đánh chiếm Giang Châu, Trình Châu, xua quân đến Giang Lăng, tiến thẳng vào Ba Lăng (Nhạc Dương, Hồ Nam ngày nay). Tiêu Dịch sai Vương Tăng Biện đánh lui Hầu Cảnh, giành lại Giang Châu, Trình Châu. Tháng 03 năm 552, Vương Tăng Biện đánh thẳng vào Cô Thục (An Huy), rồi thừa thắng xua quân vào Kiến Khang tiêu diệt Hầu Cảnh. Ba anh em Tiêu Đống vốn là cháu của Tiêu Thống (anh cả của Tiêu Dịch) từ lâu bị Hầu Cảnh quản thúc. Lúc này họ chạy về đầu quân ở Hình Châu, nhưng dưới quyền của Dịch. Vương Tăng Biện đã bắt cả ba anh em Tiêu Đống nhận nước đến chết.

Hầu Cảnh đã thua. Tháng 11 năm 552, Tiêu Dịch xưng Đế ở Giang Lăng, đó là Lương Nguyên Đế. Trong quá trình làm nên Đế nghiệp ấy, Trần Khởi Tổ đã giúp Dịch rất nhiều. Bởi vậy, khi phong thưởng cho bá quan văn võ, Dịch không quên Trần Khởi Tổ và đã phong cho ông là : Sứ Trì Tiết Tán Kỵ Thường Thị Ích Dương Huyện Khai Quốc Hầu.

Lúc Trần Khởi Tổ được phong Hầu, Trần Đức An mới lên 15 tuổi. Một thiếu niên 15 tuổi, lẽ đâu không cảm nhận được điều gì trong cuộc tàn sát đẫm máu ấy ? Có lẽ, Ngài đã thấy rõ dã tâm tranh danh đoạt lợi dẫn đến sự tương tàn của anh em họ Tiêu, và đó là nguyên nhân khiến Ngài có một nguyện vọng vô cùng mãnh liệt là thoát khỏi sự ràng buộc của cuộc đời. Đúng vào năm cha Ngài được phong Hầu, Ngài cầu xin cha cho xuất gia. Nguyện vọng này đương nhiên cha Ngài không chấp nhận.

Một con người sống trong cảnh giàu sang quyền quý, bỗng nhiên muốn nương nhờ cửa Phật, tìm chốn thanh tịnh, có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng với Trần Đức An, nguyên nhân chính là sự ghê sợ trước biến cố của thời cuộc, trước cảnh tàn sát diễn ra ngay trước mắt. Ngài mong thoát ra khỏi cái thực tại đau thương này. Chính nguyện vọng mãnh liệt ấy đã đẩy Ngài vào một trạng thái dường như quên hẳn thực tại. Vào năm 15 tuổi, Ngài "dập đầu lạy Phật, bỗng thấy mình như lạc vào cõi mộng, thấy một ngọn núi rất cao uốn quanh theo eo biển, có một vị tăng nắm tay và dẫn Ngài lên núi, Ngài nói : Tôi sẽ ở đây !"

Trạng thái ấy đã làm nảy sinh trong con người Ngài một niềm say mê tìm hiểu kinh Phật đến kỳ lạ. Dù ở gần chùa, nhưng Tăng chúng hồi ấy chỉ khẩu truyền cho Ngài phẩm Phổ Môn. Thế nhưng đối với kinh điển, Ngài thường đủ sức lý giải và tự hiểu thông nghĩa lý.

Diễn tiến của thời cuộc đã minh chứng cho những linh cảm của Ngài. Đế nghiệp mà Tiêu Dịch lao tâm khổ tứ gây dựng nên không ngờ tan thành mây khói. Lúc Tiêu Dịch mới lên ngôi, nhân dân không đầy ba vạn hộ. Các quận ở Giang Bắc phần nhiều bị Đông Ngụy lấn chiếm. Lương Châu, Ích Châu đã hoàn toàn rơi vào tay Tây Ngụy. Cả một dãy Ung Châu lại trở thành thuộc địa của Tây Ngụy, đất nước thật lâm nguy. Trước đây Tiêu Dịch xưng thần với Tây Ngụy, nhưng sau khi làm Hoàng đế, Dịch không xưng thần nữa. Tây Ngụy sai sứ là Vũ Văn Nhân Thứ đến Giang Lăng thăm hỏi, Lương Nguyên Đế tiếp sứ sơ sài, đồng thời còn biểu lộ cho ông ta thấy Lương đã thống nhất, rằng Lương Châu, Ích Châu và những địa phận do Tây Ngụy chiếm lấy nay phải trả lại cho nước Lương. Vua tôi Tây Ngụy nghe vậy đùng đùng nổi giận. Họ không nghĩ đến việc trả đất mà còn muốn thôn tính luôn Giang Lăng. Tháng 09 năm 554, chấp chính Tây Ngụy là Vũ Văn Thái đã sai Vu Cẩn, Vũ Văn Hộ dẫn 50.000 bộ binh kỵ binh đánh chiếm Giang Lăng. Ngày 14 tháng 11, đại quân Tây Ngụy bao vây Giang Lăng, ngày 29 thì phá thành, bắt sống các tướng, giết Lương Nguyên Đế Tiêu Dịch. Trăm họ ở Giang Lăng hơn 10.000 người bị Tây Ngụy chia cho tướng sĩ làm nô lệ và bị dẫn hết về Quan Trung.

Lúc Giang Lăng thất thủ, cả nhà Trần Khởi Tổ lâm vào cảnh loạn ly. Người thì chết, gia sản tiêu tan. Ngài phải đi Hiệp Châu (Nghi Xương, Hồ Bắc ngày nay) sống nhờ với người cậu. Nỗi đau nhà tan cửa nát nung nấu ý chí xuất gia của Ngài. Ngài đem chí nguyện của mình nói với anh là Trần Châm (lúc ấy làm chức Tham Quân). Anh Ngài nói : "Cha mẹ vừa mất, nay em lại muốn xuất gia, anh lòng dạ nào rời xa em được !". Ngài quỳ xuống đáp : "Trước đây Lương Châu, Hình Châu hùng mạnh như thế, nhưng chỉ một chốc đã trở thành nô lệ của Tây Ngụy. Hóa ra cái dã tâm muốn thống nhất thiên hạ ấy, bây giờ ngay cả muốn cai trị một xó xỉnh nào đó cũng không được nữa rồi. Em nghĩ muốn báo đáp ân đức của cha mẹ, không nhất thiết ngày ngày chúng ta phải chịu nhục mà sống, rồi làm một người có ích. Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ĐẠO, phải nâng cao đời sống tâm linh của mình. Em bây giờ đã quyết chí, sợ rằng không thể thay đổi được nữa".

Người anh nghe xong đành đồng ý với quyết định do Ngài lựa chọn và bảo Ngài đến Hoành Châu (Hoành Dương ngày nay) tìm bạn cũ của cha mẹ là Thứ Sử Tương Châu Vương Lâm. Nhờ sự giúp đỡ của Vương Lâm, Ngài đã xuất gia tại chùa Quả Nguyện ở Tương Châu với pháp danh là Trí Khải. Lúc này Ngài vừa tròn 18 tuổi.

 

2. Nam Bắc cầu học, tỏ ngộ Phật pháp :

Lúc Ngài xuất gia, cục diện chính trị ở Giang Nam thay đổi dữ dội. Tây Ngụy đem Giang Lăng thành không nhà trống này giao cho con thứ 3 của Tiêu Thống là Tiêu Sát coi giữ. Vương Tăng Biện, Trần Bá Tiên thì ở Kiến Khang phò con thứ 9 của Tiêu Dịch là Tiêu Phương Trí làm Đế, đó là Lương Kính Đế.

Tháng 09 năm Thái Bình thứ 2 (557), Trần Bá Tiên đánh bại Vương Tăng Biện, cấu kết với quân Bắc Tề, tiêu diệt Vương Tăng Biện. Sau khi vào được trong đám quân Bắc Tề, Bá Tiên phế truất Kính Đế rồi tự lập. Lúc này hiệu lệnh của chính quyền Giang Đông vẫn không vượt ngoài thành Kiến Khang kia. Thứ Sử Tương Châu Vương Lâm chiếm cứ Tương Châu, Trình Châu. Một mặt, ông phò cháu thứ 7 của Tiêu Dịch là Tiêu Trang lên làm Lương chủ, mặt khác ông lại cấu kết với Bắc Tề, Bắc Chu đưa quân về Đông, đánh vào Kiến Khang, nhưng bị Trần Văn Đế, Trần Thiến đánh bại. Năm 560, Trần Văn Đế thu lại Giang Châu, Trình Châu, cát cứ hết thế lực của Vương Lâm trong vùng trung lưu Trường Giang, bắt đầu củng cố chính quyền Giang Đông.

Năm 555 - 560, Ngài cầu học chủ yếu ở Tương Châu và Hoành Châu. Dưới sự dẫn dắt của Đại sư Pháp Tự, Ngài được học Luật. Sau, Ngài lạy Luật sư Tuệ Khoáng làm thầy, học những bộ luật căn bản. Kế đó, Ngài vào núi Đại Hiền ở Hoành Châu tụng Pháp Hoa Kinh, Phổ Hiền Quán Kinh, Vô Lượng Nghĩa Kinh. Trong quá trình tìm đọc giáo nghĩa, Ngài đã hoàn toàn chìm sâu trong ấy, "tâm thần thanh tịnh, lanh lợi lạ thường".

Đương thời, Phật giáo ở Giang Nam đã tương đối phát triển. Tại Tề, Lương, trên đà thâm nhập, lý giải về Phật tánh, học thuyết Bát-nhã đã phát triển cực thịnh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, vượt hẳn sự truyền bá của các Ngài như La Thập, Tăng Triệu v.v... từng xiển dương tại Quan Trung trong thời Diêu Tần. Lúc này, về phương diện lý luận, hầu hết tín đồ Phật giáo ở phương Nam có một cái nhìn rất chính xác, thiết thực đối với pháp thân Phật, những cảnh giới đặc trưng, cũng như bản chất trừu tượng, chứng ngộ về duyên khởi của các pháp. Như con trưởng của Lương Vũ Đế là Thái tử Tiêu Thống từng soạn tác phẩm Giải Pháp Thân Nghĩa Lệnh Chỉ, ông dựa trên lý Không quán của Bát-nhã để luận bàn bản chất của các pháp. Đây là tác phẩm không phải ai đọc cũng hiểu. Thế nhưng trong 11 người tham dự cuộc thảo luận, đã có người đưa ra những luận điểm của mình mà tính sâu sắc của nó vượt hẳn Tiêu Thống. Xét về phương diện rộng của học thuyết Bát-nhã, cũng như đứng về đời sống tinh thần của nhân dân trong thời Nam Bắc triều mà nói, học thuyết này có hai tác dụng lớn :

 

- Thứ nhất : Con người dựa trên tính phủ định, tính tư duy biện luận của học thuyết này nhằm không ngừng nỗ lực tìm tòi lý tưởng chính trị. Trước đây, Tăng Triệu đã từng dựa trên Không quán của Bát-nhã để phê bình Bản thể luận, mệnh đề lý luận Huyền học của "Lục gia Thất tông", và đã nhận được sự phản bác kịch liệt. Hiện thực tồn tại đã chẳng có mảy may tính cố định, bản chất các pháp (mọi hiện tượng) vốn là Chân Như vượt khỏi nói năng, suy nghĩ, tướng trạng, thì đương nhiên sẽ không có cái gọi là "nguyên tắc chính trị, nguyên tắc luân lý hợp lý một cách tuyệt đối". Kinh điển Phật giáo cứ thế đập tan mọi nỗ lực tư duy vấn đề của con người trên phương diện thực tại. "Tham dục tức Niết-bàn, sân si cũng như vậy, trong cả ba pháp ấy, có vô lượng Phật đạo", và con người không cần phải lấy một tiêu chuẩn cố định nào đó rồi trói chặt chính mình vào trong ấy.

 

- Thứ hai : Trên phương diện phủ định, lúc con người tìm tòi một quy chuẩn của luân lý làm người, một lý tưởng chính trị, họ lại khởi xướng ra một hướng đi khác, đó là con người nên tìm cầu một đời sống tinh thần cao đẹp, phải có chí nguyện tỏ ngộ chân lý tối cao của vũ trụ. Trước khi Phật giáo truyền vào, lãnh vực tư tưởng truyền thống của Trung Quốc chỉ hạn cuộc trong niềm tin lý tưởng về chính trị cũng như luân lý làm người thông qua thực trạng Đạo gia bài xích Nho gia, hô hào con người phải dựa trên tính căn nguyên của vũ trụ (Đạo) để tư duy về con người và phương thức sinh tồn. Lý Không quán Bát-nhã của Phật giáo đã đẩy lý luận này của Đạo gia phát triển lên một trình độ cao hơn. Nền tảng phủ định của nó bao quát giá trị tột cùng đạo sinh hóa của vũ trụ thuộc học thuyết Đạo gia, đồng thời kêu gọi mọi người phải dựa trên tư duy phủ định triệt để từ thực tại đang hiện hữu này mà xác lập một thế giới tinh thần cho con người.

Không quán của Bát-nhã đã có một tác dụng vô cùng to lớn trong việc hóa giải một vài căn bệnh sắp manh nha trên mặt tâm lý của con người trong thời Nam Bắc triều. Luân lý cương thường của Nho gia phát triển ra sao trong thời đó ? Một vài danh gia vọng tộc chủ trương đề cao địa vị trong phạm trù luân lý nhằm phù hợp với tính cách con người. Nói một cách cụ thể, thì đó chính là đề cao đạo hiếu thuận, hạ thấp lòng trung nhằm củng cố thế mạnh cho luân lý gia tộc, xem nhẹ luân lý chính trị. Riêng Phật giáo thì dựa trên lý luận và hành động để đánh giá trung hiếu. Theo giáo lý nhà Phật, tất cả chúng sanh đều chưa thoát khỏi luân hồi sanh tử, đều bình đẳng như nhau. Quả báo của luân hồi sanh tử không phải do một nhân tố nhất định nào đó, mà chủ yếu là do nghiệp lực quyết định. Ở phương diện này rất có lợi cho việc đả phá tính hạn chế của luân lý cương thường, đồng thời phá vỡ bớt giá trị luân lý mà danh gia vọng tộc cố chấp, không ngoài mục đích chủ trương hưởng lạc và phi đạo đức. Nó có tác dụng mở mang tư tưởng cho con người đương thời. Có lẽ do chịu ảnh hưởng những nhân tố này, nên cuối cùng Ngài vượt ra ngoài vòng cương tỏa luân lý, mô phạm của người giàu sang quyền quý, muốn đi tìm một chân lý siêu việt hơn.

Thời Lương, Trần, trong quá trình du nhập phát triển, ở Giang Nam, học thuyết Không quán Bát-nhã lại xuất hiện một ý tưởng mới, đó là lấy Phật tánh làm hạt nhân của hệ thống Phật học. Người tỏ rõ ý tưởng này đầu tiên là Lương Vũ Đế thông qua lập luận "Thần minh thành Phật". Ông ta cho Phật tánh là tâm thức sáng suốt (thần minh), cho tâm thức có hai mặt là Thần minh và Vô minh. Khía cạnh Thần minh của nó là nền tảng để thành Phật, biểu hiện qua pháp Vô vi. Khía cạnh Vô minh là cội gốc chướng ngại, biểu hiện qua các pháp Hữu vi. Quan điểm của Lương Vũ Đế trở thành giáo nghĩa nan giải của Phật giáo đương thời. Về phương diện lý luận, "Thần minh thành Phật" của Lương Vũ Đế không ngờ lại cao sâu như vậy, nhưng lại nảy sinh một ý tưởng khác là từ Phật tánh lại xuất hiện thêm hệ thống lý luận về Phật học. Nói cách khác, Phật giáo phát triển đến thời Lương, Trần đã hình thành một nhu cầu lý luận mới, yêu cầu con người đem dòng tư tưởng tương đối thông thoáng của người Trung Quốc để chỉnh lý, chắt lọc lại hệ thống Phật học khổng lồ, hay cần phải có một người nào đó đứng ra hệ thống lại toàn bộ những lập luận về giáo nghĩa.

Ở vào tuổi mười tám, đôi mươi, Trí Khải bắt đầu từng bước đi sâu vào Phật pháp. Đối với nghĩa lý "Phật tánh" đang bừng bừng phát triển của Lương Vũ Đế, kết quả của những cuộc thảo luận nghĩa lý Nhị đế đã làm cho Ngài không thể không tiếp xúc những đỉnh cao của giới Phật giáo Giang Nam. Trên thực tế, do chú tâm vào những vấn đề này, đồng thời thâm nhập kinh điển mới khiến cho Ngài có những nhận thức đặc thù về lý luận Phật giáo. Trong TRÍ GIẢ ĐẠI SƯ BIỆT TRUYỆN, Quán Đảnh cho rằng Trí Khải đọc kinh và cảm nhận. Nhưng sự thật đây là một tâm cảnh trầm mê, chấp trước. Trong trạng thái ấy, Trí Khải cảm thấy mình nắm chắc một chân lý nào đó, nhưng lại không thể nói được chân lý ấy rốt cuộc là cái gì. Ngài lại không đủ khả năng biểu đạt, lý luận nó, song cảm thấy tinh thần vô cùng sung mãn, có đủ mắt sáng nhìn nhận ra vấn đề.

Trong năm mà Trần Văn Đế cát cứ hết thế lực của Vương Lâm trong vùng trung lưu Trường Giang, Trí Khải đến núi Đại Tô thuộc Quang Châu. Lúc này núi Đại Tô có Thiền sư Tuệ Tư cư ngụ. Tuệ Tư (515 – 577), Sư họ Lý, quê ở huyện Vũ Tân, quận Nhữ Dương, Dự Châu (nay là huyện Thượng Thái, tỉnh Hà Nam). Năm 15 tuổi, Sư tín ngưỡng Phật pháp xuất gia, 20 tuổi thọ giới Cụ túc, thường đọc Kinh Pháp Hoa. Nhân đọc Kinh Diệu Thắng Định và Sư bắt đầu tu tập Thiền quán. Sư tâm đắc pháp thiền, ngộ được Pháp Hoa Tam-muội. Năm 34 tuổi (548) Sư giảng Thiền ở Duyện Châu, gặp phải trở ngại nên Sư về Nam. Trước tiên Sư đến Tín Châu, sau đó vào Trình Châu. Năm 553, Sư đến Quang Châu. Năm 554, Sư vào trụ trong núi Đại Tô. Sư từng giảng Kinh Đại Phẩm Bát-nhã tại chùa Khai Nhạc và Quán Ấp, tín chúng mỗi ngày một đông. Năm 558, Sư soạn Lập Thệ Nguyện Văn tại chùa Tề Quang, huyện Quang Thành, thuật lại quá trình xuất gia học đạo, tu tập Thiền quán, những nơi hoằng hóa gặp phải tà đạo quấy nhiễu, gặp phải độc hại của chính mình, nhân đó Sư phát tâm soạn lại nhân duyên biên chép kinh điển, lập đại nguyện tu Thiền mong cầu giải thoát, được sức thần thông, hoằng dương Bát-nhã, thệ nguyện độ khắp hữu tình. Nhờ tác phẩm Lập Thệ Nguyện Văn này lưu hành, nên đã có không biết bao tín chúng vượt ngàn dặm đến cầu học. Trí Khải đến núi Đại Tô, theo ngài Quán Đảnh, đó là vì "Trí Khải thường thích pháp Thiền, nhưng ở Giang Đông chẳng biết ai để thưa học". Rất có thể Trí Khải mến mộ pháp Thiền của Tuệ Tư nên đến đây để thưa học. Nhưng thực tế, có lẽ do Trần Văn Đế vây khốn Tương Châu, Trình Châu, vì để tránh loạn nên Ngài đành phải vào biên cảnh của Trần, Tề.

Việc Ngài lánh nạn trong núi Đại Tô, đối với việc Ngài trở thành một người sáng lập tông phái sau này mà nói, thì dù vì lý do gì đi nữa, nó cũng là một bước chuyển ngoặt vô cùng quan trọng. Thời Nam Bắc triều, Phật giáo đã hình thành hai quan điểm nhận thức Phật học. Phật học ở Nam triều chú trọng đến tư duy, biện luận; ngược lại Bắc triều thì đặt nặng về thực hành. Sự phát triển của lý luận Phật học cần phải kết hợp cả tư duy biện luận và thực hành, hay nói cách khác, phải hòa đồng giữa hai quan điểm giữa Nam và Bắc. Những Thiền sư Bắc triều như Tuệ Văn, Tuệ Tư tu tập Thiền pháp, nhưng bản thân các Ngài cũng đã hấp thụ được nội dung của học thuyết Bát-nhã. Quán Đảnh nói, Thiền pháp của Tuệ Văn chỉ dựa vào Thích Luận (tức Đại Trí Độ Luận). Tuệ Văn từng đem Đại Phẩm Bát-nhã triển khai và giảng "tu tập Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí" và kết quy về "Nhất tâm đắc". Dòng tư tưởng này ảnh hưởng đến Tuệ Tư. Tuệ Tư đem những giáo nghĩa được Tuệ Văn kết hợp giữa Thiền và Kinh Bát-nhã khai triển thành giáo nghĩa được kết hợp giữa Thiền và Kinh Pháp Hoa. Sư cho rằng, chỉ có lấy Tâm pháp làm nền tảng mới có thể lý luận Thật tướng các pháp. Tâm pháp có thể chia thành hai loại là Tâm thức gốc và Tâm thức ngọn. Lục thức là tâm thức ngọn, là tướng của tâm. Bản chất của Lục thức là tâm thức gốc, là tánh của tâm, hay còn gọi là Như Lai tạng. Cách lập luận này của Tuệ Tư rất có thể là Tâm thức quán cho một số người tu Thiền đương thời, đồng thời thể hiện được họ căn cứ trên sự chứng nghiệm của tự thân từng người để nỗ lục dung hòa hệ thống Phật học. Thế nhưng cách làm này cũng rất dễ đẫn đến sự phản đối của những người bảo thủ Thiền pháp truyền thống vốn có. Thiền pháp của đệ tử Đạt-ma là Tuệ Khả, đệ tử của Tuệ Văn là Tuệ Tư cuối cùng chắc bị lật đổ ở phương Bắc. Chính do tính sáng tạo này của họ đã phá hoại Thiền pháp truyền thống vốn có.

Trí Khải đến núi Đại Tô, may mắn được theo Thiền sư Tuệ Tư tu học. Một mặt khiến cho Ngài có điều kiện bổ khuyết những kinh nghiệm thực tiễn của Thiền pháp phương Nam, mặt khác lại rất có lợi cho Ngài trong việc tìm ra một nền tảng thiết thực để điều chỉnh lại hệ thống Phật học. Quán Đảnh mô tả lại việc sau khi Ngài bái kiến Thiền sư Tuệ Tư như sau :

Khi biết được chí hướng và tâm đắc của Ngài, Tuệ Tư nói : "Ta với ông trong những đời trước cùng nghe Thế Tôn giảng Kinh Pháp Hoa, đối với nhiệt tâm tìm cầu chân lý Phật pháp, ta với ông rất khế hợp". Thế rồi, Sư đem Thiền pháp mà chính mình thể hội dạy lại cho Ngài. Theo sự chỉ dạy đó, Trí Khải chẳng quản ngày đêm tụng đọc, nghiền ngẫm Kinh Pháp Hoa. Tụng đến phẩm Dược Vương, thân tâm Ngài hoát nhiên tỏ ngộ, thông đạt diệu nghĩa của Pháp Hoa, thấu tỏ Thật tướng các pháp".

Trí Khải nắm bắt rất mau những gì Tuệ Tư truyền dạy. Lúc Ngài đem kiến giải của mình trình cho Tuệ Tư, Tuệ Tư còn chỉ cho Ngài một hệ thống các pháp thông qua việc lấy Tâm pháp làm nền tảng. Trong lòng Ngài hân hoan vô cùng. Đột nhiên Ngài cảm thấy mọi mối nghi từ lâu thắt chặt trong lòng bỗng tan biến hết. Càng dụng công, sự tiến bộ của Ngài ngày càng phi phàm, "hỏi một biết mười, quán tuệ vô ngại, Thiền môn chẳng ngưng, túc duyên mở bày, tỏ như hoa nở". Ngay cả thầy Ngài là Thiền sư Tuệ Tư cũng phải thốt lên : "Cảnh giới này, ngoài ông ra, không ai có thể chứng đắc viên dung và nhanh như vậy, ngoài ta ra, không ai có thể thấy rõ mức độ thấy biết của ông hiện nay : Ông đã chứng đắc Pháp Hoa Tam-muội, dù có ngàn vạn Kinh sư đến thảo luận Phật pháp với ông, ông cũng chẳng lo sợ, hiện nay ông đã đủ kiến giải để làm một vị giảng pháp bậc nhất rồi !"

Tại núi Đại Tô, Trí Khải đã tu tập với Tuệ Tư khoảng 8 năm. Tuệ Tư rất hài lòng với sự tiến bộ của Ngài. Trong một thời gian dài, Trí Khải đã thay Tuệ Tư thuyết giảng. Có lần nghe Ngài giảng, Tuệ Tư đã vui mừng nói : "Pháp đã có người giao phó, pháp vương từ nay vô sự rồi !"

Trí Khải từng theo Luật sư Tuệ Khoáng nghe giảng, Tuệ Khoáng cũng rất đề cao Ngài. Đối với việc Ngài sáng lập tông Thiên Thai sau này mà nói, 8 năm khổ tu ở núi Đại Tô đã mở ra một ảnh hưởng có tính quyết định.

 

3. Kim Lăng truyền đạo, bộc lộ tài năng :

Năm 567, Tuệ Tư quyết định từ Quang Châu qua Hồ Nam rồi vào Nam Nhạc. Trước khi đi, Sư nói với Trí Khải : "Từ lâu ta đã có mong muốn vào Nam Nhạc Hoành Sơn tu Thiền, chỉ lo là Thiền pháp của ta không người kế thừa. Ngày nay ông đã khế ngộ, thật khế hợp bản nguyện của ta. Ta dự định đi Nam Nhạc, ông không phải đi theo, chỉ cần ông dựa vào Thiền pháp của ta mà tùy duyên giáo hóa, dẫn dắngười sau là được rồi, nhất thiết không được để nguồn Thiền bị đứt đoạn".

Năm 568, Tuệ Tư dẫn hơn 40 đồ chúng qua Hồ Nam rồi vào Nam Nhạc, tiếp tục xiển dương Thiền tông. Ở đất Trần, Sư đã tiếp độ một số lượng đồ chúng khá đông. Trần Chủ cũng đã thỉnh Sư giảng Đại Phẩm Bát-nhã tại chùa Thê Huyền, đất Kiến Nghiệp vốn là quốc đô của nhà Trần. Sư lấy làm tiếc vì giới Phật học đương thời ở đây quá chú trọng về lý luận, xem nhẹ Thiền quán. Thế là Sư cùng mở hai môn Định, Tuệ, ngày thì giảng lý, đêm đến tu Thiền, đồng thời giảng nói về Thiền Ba-la-mật. Trần Chủ tôn Sư là Đại Thiền Sư. Sau, Sư về lại Nam Nhạc, tiếp tục hoằng truyền Thiền pháp. Đời Trần, năm Thái Kiến thứ 9 (577) Sư quy tịch. Tính ra, Sư đã hoằng hóa tại đất Trần ngót 10 năm.

Sau khi không được theo Tuệ Tư vào Nam Nhạc, Trí Khải đã cùng 27 huynh đệ như Pháp Hỷ v.v... cất bước về Đông, đến Kim Lăng vốn là kinh đô nhà Trần để hoằng hóa. Lúc này, Trần Văn Đế vừa mất. Con ông là Trần Bá Tông lên kế ngôi, đó là Trần Phế Đế. Năm 569, em Văn Đế là Trần Húc phế Bá Tông rồi tự lập, đó là Tuyên Đế. Đương thời Trí Khải chọn đô thành của nhà Trần làm nơi hoằng truyền Thiền pháp, đây có lẽ là kết quả mà Tuệ Tư cùng Ngài đắn đo, chọn lựa. Thiền pháp mà hai thầy trò Ngài lập ra cốt dung hòa nghĩa lý và thực tiễn. Điều này không phù hợp với truyền thống của Thiền tăng phương Bắc. Năm 560, sau khi lên ngôi, Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung thường tỏ vẻ "mù mờ", tuy không biểu hiện ra mặt, nhưng thực tế ông đã ngấm ngầm ức chế Phật giáo. Ông thường đề cao Nho học, cho Nho học thảo luận những mối tệ của Phật giáo và Đạo giáo. Vào thời điểm này, chính quyền nhà Trần tương đối ổn định, đồng thời lại có phần phổ cập nghĩa lý Phật giáo mang tính phổ thông, rất thích hợp cho việc hoằng truyền một pháp Thiền mới là dung hòa Thiền và Lý thành một thể. Việc chọn nước Trần làm trung tâm hoằng hóa, rất có thể Trí Khải khó tránh khỏi những ràng buộc về mặt tình cảm. Trần Văn Đế rốt cuộc lại là người dẹp sạch thế lực của Vương Lâm – người ủng hộ Ngài xuất gia. Cha ông ấy là Trần Bá Tiên từng lật đổ cha Ngài là Trần Khởi Tổ, từng vì ông ta mà phấn đấu cho chính quyền nhà Lương. Nhưng, hễ nghĩ đến những hành động dã man của Tiêu Dịch (Lương Nguyên Đế), cha bị giết, triều Lương diệt vong, thì Ngài cho rằng Nguyên Đế là kẻ đáng tội. Cha Ngài là Trần Khởi Tổ và Cố Cựu Vương Lâm chẳng qua là một trong những điều kiện, tác nhân làm cho chân lý tối cao của Phật giáo mau chóng biểu hiện. Thế nhưng, Trần Văn Đế vây khốn Tương Châu lại là nhân duyên khiến Ngài gặp được Tuệ Tư, khiến Ngài tiến nhanh hơn trong việc thể nhập chân lý. Cứ nghĩ đến những điều này, mọi vướng mắc trên mặt tình cảm của Ngài dần dần được tháo gỡ.

Khoảng thời gian 3 năm, từ 567 - 569 (tức Ngài khoảng 29 - 31 tuổi), công việc hoằng pháp của Ngài dần dần phát triển. Có lẽ do nghĩa lý thâm sâu, lý luận siêu việt, nên lúc mới đến Giang Lăng người học chẳng có bao nhiêu. Nhưng qua ba việc dưới đây, tiếng tăm của Ngài bắt đầu lan xa :

 

- Thứ nhất là việc lão tăng Pháp Tế hỏi Thiền. Pháp Tế tự cho mình là rường cột của Thiền học Nam triều, Sư hỏi Trí Khải : Từng có người nhập định, biết Nhiếp Sơn chấn động, biết Tăng Thuyên quy tịch, đây là loại Thiền gì ?

Ngài đáp : Đây là biên định cạn cợt, bị tà xâm nhập, nếu cứ thế mà tu chắc chắn lạc vào ma đạo.

Pháp Tế thất kinh nói : Tôi từng hành trì và đạt đến cảnh giới này, tôi hỏi Tắc Công nhưng Tắc Công không giải thích được, nói vậy tôi chẳng có chút công năng nào sao ? Ngày nay tôi mới thật nghe được những điều xưa nay chưa từng nghe, thầy không những thấu suốt Pháp tướng lại còn biết rõ cảnh giới tỏ ngộ Phật pháp mà người khác đạt đến.

Thế rồi Pháp Tế đem sự việc này kể cho đệ tử là Hà Khải nghe. Hà Khải lại nói cho người khác biết, từ đó người ta đua nhau tìm đến Ngài để thưa học.

- Thứ hai là việc Ngài luận bàn giáo nghĩa với Pháp sư Đại Nhẫn ở Tưởng Sơn. Đại Nhẫn vốn là long tượng về nghĩa học nổi tiếng của thời Lương, Trần. Sư rất ít giao tiếp. Một lần Sư cùng Ngài luận bàn Phật pháp ở Tưởng Sơn. Đại Nhẫn là người làu thông kinh luận, Trí Khải là người thâm nhập Thật tướng, hai người bộc lộ tài năng làm cho người nghe một phen mở mang tai mắt. Đại Nhẫn cảm động nói : "Cách lập luận của Trí Khải không phải lưu xuất từ văn sớ mà là tùy cơ ứng biến. Xem ra ông ấy đích thực thể nhập Phật pháp nên mới có những kiến giải tinh thông, sắc bén như vậy. Cách lập luận của ông ấy thật khế hợp với diệu nghĩa Không quán của Bát-nhã. Từ cuộc luận bàn này, tôi như người tỉnh mộng, vinh dự thay !"

Qua buổi đàm luận đó, tiếng tăm của Trí Khải càng vang xa, không những mọi người đến thưa học, mà có người còn thỉnh Ngài trụ trì những tự viện vốn là Thánh tích của Phật giáo.

 

- Thứ ba là việc Ngài biện luận Phật pháp với Tuệ Vinh và đệ tử của Pháp Lãng ở chùa Ngõa Quan. Tuệ Vinh không phục Ngài nên đã công khai biện luận. Sư đưa ra rất nhiều giáo nghĩa phức tạp, nhưng Ngài lý giải thông suốt cả. Khả năng tư duy và tài lý luận sắc bén của Ngài đã làm cho Tuệ Vinh sửng sốt, lặng người, đến nỗi cây quạt cầm trong tay rơi xuống đất lúc nào chẳng hay. Sau đó không lâu, Pháp Lãng sai đệ tử tâm đắc nhất của mình đến biện luận Phật pháp với Ngài. Pháp Lãng từng có một thời gian dài nghiền ngẫm Không quán Bát-nhã, phải nói ông ấy có một khả năng nhận thức giáo nghĩa siêu việt. Trí Khải đã cùng đệ tử Pháp Lãng biện luận đến mấy mươi ngày, cuối cùng đệ tử của Pháp Lãng đành khuất phục và ở lại chùa Ngõa Quan học Thiền với Ngài.

Việc bộc lộ tài năng ở Kim Lăng, chứng tỏ Thiền sư Tuệ Tư đánh giá, nhìn nhận Trí Khải thật chính xác. Trong những cuộc biện luận, Trí Khải không hoàn toàn dựa hết vào kinh điển văn sớ mà là dựa trên sự chứng nghiệm của tự thân để chỉnh lý giáo nghĩa. Quan điểm mà Ngài đưa ra, ngay cả người có khả năng lý luận siêu việt cũng không thể bắt bẻ được. Điều đó phần nào chứng tỏ sự phát triển của giáo nghĩa Phật giáo không thể hoàn toàn dựa vào văn tự chữ nghĩa, mà phải có sự chứng nghiệm của chính những nhà lý luận. Trong quá trình biện luận chiết phục những nhà lý luận giáo nghĩa đứng vào bậc nhất, điều mà Trí Khải dựa vào chính là Thiền trí mà Ngài đã học được từ Thiền sư Tuệ Tư. Thế là Ngài dung hợp Thiền định và nghĩa lý thành một thể. Giáo nghĩa mà Ngài nói ra tự nhiên để lại cho người nghe một ấn tượng "Ngài là một Cao tăng có đủ học và hành chứ không phải một nhà lý luận suông", và người ta trân trọng, đề cao Ngài là lẽ tất nhiên.

Năm 569, Trí Khải tròn 31 tuổi. Sau khi đoạt được ngôi vị Đế vương, Trần Tuyên Đế bắt đầu bàn kế hoạch chiếm lấy Hoài Nam. Cũng vào thời điểm này, tiếng tăm của Ngài vang đến triều đình và Trần Tuyên Đế cũng bắt đầu chú ý đến vị Hòa thượng này. Lúc Trí Khải được mời giảng Kinh Pháp Hoa ở chùa Ngõa Quan, Trần Tuyên Đế triệu tập bá quan, sai một số quần thần đi nghe giảng. Đó là Phó Xạ Từ Lăng, Quang Lộc Vương Cố, Thị Trung Khổng Hoán, Thượng Thư Mao Hỷ, Phó Xạ Chu Hoằng Chánh ..., những người này đều là trọng thần trong triều. Ngần ấy công khanh đi nghe Trí Khải – một Hòa thượng trẻ măng giảng kinh, quả là điều hiếm thấy.

Trần Tuyên Đế là một ông vua có hoài bão lớn. Nhưng khi ông ta tính chuyện lấy Hoài Nam là phạm một sai lầm nghiêm trọng. Để đánh Bắc Tề, Bắc Chu cũng đã có ý định liên kết với Trần. Trần Tuyên Đế không hề nhận ra dụng tâm Bắc Chu lợi dụng Trần xuất binh đánh Hoài Nam kềm chân Bắc Tề để mình thôn tính Bắc Tề. Năm Thái Kiến thứ 5 (573), Trần thực hiện cuộc Bắc phạt, năm 575 bị Tề đánh cho đại bại ở Lã Lương (cách Từ Châu, Giang Tô khoảng 50 dặm về Đông nam), cả dãy Hoài Nam cũng mất. Thất bại này do Trần Tuyên Đế chủ quan và không hề có viện binh. Bắc Chu Vũ Đế thừa cơ xuất quân, năm 576 tiêu diệt Bắc Tề, thống nhất Trung nguyên. Lúc này Trần Tuyên Đế muốn giành lại Từ Châu, Duyện Châu, tự nhiên hình thành thế đối lập với Bắc Chu. Sự xung đột, đánh nhau giữa Bắc Chu và Trần không thể nào tránh khỏi.

Năm 569 - 575 là giai đoạn không mấy yên ổn của Trần Tuyên Đế, nhưng Trí Khải vẫn miệt mài với công việc hoằng dương Phật pháp. Ngài chủ yếu giảng Đại Trí Độ Luận và Thứ Đệ Thiền Môn. Việc hoằng pháp xem ra thật rầm rộ, nhưng thực tế không có hiệu nghiệm là bao. Tương truyền, hồi ấy ở chùa Ngõa Quan chỉ có 40 người tu Thiền nhưng đã có 20 người đắc pháp. Sau đó có hơn 100 người tu Thiền cũng chỉ có 20 người đắc pháp. Sau nữa có hơn 200 người tu Thiền nhưng có không đến 10 người đắc pháp. Càng về sau, những người theo Ngài học càng đông, nhưng người đắc pháp ngày một ít đi. Có lẽ Ngài cảm thấy Kim Lăng quá phồn hoa, trong thời thái bình con người thường không cảm nhận được ý nghĩa nhân sinh một cách thiết thực và đã làm cho con người không thể nhận ra nguy cơ tiềm tàng trong đời sống an ổn. Năm Thái Kiến thứ 7 (575), Trần thu phục được Hoài Nam. Kể ra đây là thời kỳ thịnh vượng. Trí Khải quyết định tự đi hoằng hóa. Ngài đến núi Thiên Thai "cắt đứt muôn duyên, ăn rau rừng uống nước suối, thực hiện chí nguyện bình sinh của mình". Hoàng đế và trăm quan ở Kim Lăng cố giữ Ngài lại, nhưng Trí Khải vẫn quyết chí về Đông Xuyên, lúc này Ngài đã 38 tuổi.

 

4. Ẩn cư Thiên Thai, chí cầu tinh tấn :

Tháng 9 năm Thái Kiến thứ 7 (575), Trí Khải đặt chân đến núi Thiên Thai. Núi Thiên Thai thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang ngày nay. Đương thời đã có một vài Thiền tăng đang tu tập ở đó. Lúc Trí Khải cùng Tuệ Biện v.v... cả thảy hơn 20 người đến, Thiền sư Định Quang và một số vị khác nữa nồng nhiệt đón tiếp Ngài. Trí Khải ở Thiên Thai ngót 10 năm, đến Trần hậu chủ niên hiệu Chí Đức thứ 3 (585) Ngài mới rời Thiên Thai về lại Kim Lăng.

Trong 10 năm ấy Ngài đã làm không biết bao Phật sự. Đầu tiên, Ngài đóng thất khổ tu, thể nhập cảnh giới sâu xa của Thiền định. Trên dãy Thiên Thai có một ngọn núi tên là Hoa Đảnh, địa thế cheo leo, hiểm trở. Vừa đến Thiên Thai, Ngài đã rời đồ chúng, một mình lên Hoa Đảnh tấn tu đạo nghiệp. Đêm đến, nghe âm thanh hãi hùng của rừng già rít lên trong gió, Ngài cảm thấy như núi non chấn động. Muôn ngàn yêu ma hinh thù quái dị chờn vờn trước mặt trông thật đáng sợ, chẳng khác bức tranh vẽ cảnh Thế Tôn hàng phục ma quân. Thế nhưng tâm Ngài chẳng chút nao núng, hoảng loạn, cảnh tượng hãi hùng ấy dần dần biến mất. Ngay đó Ngài đã thể nghiệm được trạng thái một mình ở nơi vắng vẻ đối diện với sự tác động bức bách nội tâm của các pháp. Trong lúc dụng tâm đối mặt trước muôn ngàn cảnh tượng khiếp sợ ấy, giữa lúc đơn độc bơ vơ, ký ức về một thời sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, bạn bè đã sống dậy trong Ngài. Trí Khải thấy rõ, ngay lúc này đây, tình thương yêu của quyến thuộc trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nhưng Ngài đã quán sâu Thật tướng, thấy rõ gốc Không, và cuối cùng đã thoát ra khỏi trạng thái ấy. Qua cuộc bức phá đó, đã khiến cho Ngài càng vững tâm trên con đường khổ hạnh. Nếu như lúc còn ở chỗ Tuệ Tư, Ngài đã đem những gì học được kết hợp với sự thể nghiệm của bản thân để nghiên cứu Phật pháp, thì bây giờ, Ngài dùng cả thân tâm để trực diện với toàn bộ thế giới hiện tượng, đem kết quả của quá trình tu tập dung hòa với đời sống thực tại làm thành một thể, vượt qua tất cả mâu thuẫn và đối kháng. Ngài cảm thấy tinh thần an tĩnh lạ thường. Tương truyền, sau khi tu khổ hạnh ở Hoa Đảnh, Ngài trở lại Thiên Thai "sống đời đạm bạc, vui với núi rừng, cắt đứt muôn duyên, nội tâm tĩnh lặng, trí tuệ siêu quần, lý Thiền sâu sắc".

Đời sống tu hành ở Thiên Thai hồi ấy cũng lắm gian nan. Do địa thế hiểm trở, đường sá chẳng thông, thêm vào đó không mấy người thành tựu, nên đã có một vài vị muốn đến nơi khác cầu học. Trí Khải và Đạo Xước phải tự kiếm rau rừng, nhặt hạt dẻ để sống qua ngày, nhưng không hề cảm thấy nghèo khốn, buồn chán. Về sau, Trần Tuyên Đế biết hoàn cảnh như vậy, nên vào năm Thái Kiến thứ 9 (577), Tuyên Đế hạ chiếu : "Thiền sư Trí Khải là bậc long tượng của Phật pháp, thầy của đương thời, dẫn dắt tăng tục, là niềm hy vọng cho nước nhà. Nay lệnh cắt thuế má của huyện Thỉ Phong cung cấp cho Ngài, đồng thời cử hai người dân đến giúp việc chặt củi, gánh nước".

Trần Tuyên Đế đem hết thuế má của huyện Thỉ Phong cung cấp cho Ngài, lại còn cho hai người dân đến tạp dịch, từ đó đời sống tu hành của tăng chúng ở Thiên Thai mới tương đối đủ đầy , không phải tốn nhiều thời giờ cho cái ăn, cái mặc hằng ngày. Nhờ Viên Tử Hùng giúp đỡ, Ngài đã bắt đầu dựng tự viện. Mãi đến năm Thái Kiến thứ 10, ngôi tự viện mới hoàn thành. Thông qua lời khải tấu của Tả Phó Xạ Từ Lăng, Trần Tuyên Đế đã sắc tứ ngôi tự viện này là Tu Thiền Tự.

Trong hơn 20 năm ở Thiên Thai, Ngài đã bắt đầu dung hòa hai khía cạnh thực tiễn và lý luận. Rất có thể, trong thời gian này, Ngài đã giảng dạy và soạn Lục Diệu Môn, Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu, Thiền Ba-la-mật Thứ Đệ Pháp Môn.

Lục Diệu Môn là tác phẩm do Ngài soạn sớm nhất mà hiện nay ta thấy. Trong tác phẩm này, Ngài đã chỉ ra 6 giai đoạn tu Thiền gồm : Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn và Tịnh. Tác phẩm Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu thì lấy Chỉ, Quán làm nền tảng, đưa ra một giáo quán trọng yếu là Nhất Tâm Tam Quán. Trong ấy có đoạn ghi : "Con đường dẫn đến Niết-bàn có rất nhiều lối. Nếu luận về mau chóng thì không ngoài hai pháp Chỉ và Quán. Vì sao ? Vì Chỉ là cửa ngõ đầu tiên để chánh tâm, Quán là con đường chánh yếu để đoạn Hoặc. Chỉ là phép mầu để trưởng dưỡng, điều phục tâm thức; Quán là thuật hay để mau phát kiến giải siêu việt. Chỉ là nhân thù thắng của Thiền định, Quán là duyên thù thắng của trí tuệ. Hai pháp này như hai bánh của chiếc xe, như hai cánh của con chim, là pháp căn bản nhất để hành giả đi vào cửa ngõ Niết-bàn". Chúng ta rất dễ nhận ra, đây là pháp quý báu mà Ngài đã học được từ Thiền sư Tuệ Tư, và cũng là pháp bí yếu để Ngài có đủ khả năng hàng phục ngoại ma khi còn khổ tu tại Hoa Đảnh. Ngài nói : "Nếu hành giả tu Chỉ Quán, hay thấy rõ tất cả các pháp đều từ tâm sanh. Nhân duyên hư dối không thật nên nhân duyên vốn không. Do biết không, nên không chấp trước tướng văn tự của các pháp".

Đời Đường, một đệ tử tại gia nổi tiếng của Thiên Thai nhận xét về Chỉ Quán như sau : "Chỉ Quán là gì ? Là lý dẫn vạn pháp trở về với thực tại. Thực tại là gì ? Là gốc của tánh". Ở đây tác giả muốn nói : Chỉ Quán của Thiên Thai vừa muốn kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, lại vừa lấy nó làm trọng tâm để hiển bày chân lý tối cao của Phật giáo.

Như trước đã nói, trong thời Lương, Trần, giới Phật giáo Trung Quốc đã nỗ lực cách tân Phật giáo. Để xây dựng một hệ thống lý luận, đã có không biết bao Cao tăng mỗi người đều đưa ra quan điểm lý luận của mình. Theo nghiên cứu, đương thời Phật giáo ở Giang Nam dựa trên nền tảng Không quán Bát-nhã hình thành một truyền thống tư duy biện luận Bát-nhã thông qua việc lấy Phật tánh làm hạt nhân lý luận. Họ đưa ra cách lý giải nghĩa lý duyên khởi của Chân như theo cách thức từ Nhất tâm khai triển thành Nhị môn. Nhưng Phật giáo ở Bắc triều nhờ chú trọng vào thực tiễn của Thiền pháp dẫn đến sự thật chứng và phân tích rõ các pháp, kết hợp với một số kinh điển về Pháp tướng Duy thức học đang được truyền bá, hình thành một truyền thống thể nghiệm thông qua việc lấy A-lại-da thức làm hạt nhân lý luận. Họ đưa ra một hệ thống nghĩa lý về Duy thức. Học thuyết Chỉ Quán của Trí Khải đã có sắc thái tư duy biện luận của phương Nam, lại có nhân tố thể nghiệm của phương Bắc, đủ thấy rõ tướng đặc thù của Chỉ Quán là dung hòa cách lý giải khác nhau của phương Nam và phương Bắc. Ngài đã đứng trên lập trường lý luận, đồng thời xác định rõ nền tảng lý luận của mình. Đây cũng là thời điểm thành tựu nhất của Ngài (từ 38 đến 48 tuổi).

Tại núi Thiên Thai, Ngài còn làm công việc giáo hóa khiến ngư dân thay đổi nghề nghiệp. Do Thiên Thai ở gần biển, nên muôn dân ở đây đều sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Từ lâu, Ngài đem hết từ tâm khuyên nhủ muôn dân gắng tu ba nghiệp. Ngài đã dùng lý Nhân quả báo ứng để khai hóa muôn dân, đồng thời sử dụng nhân lực ở địa phương thay đổi những nghề nghiệp thích hợp cho ngư dân họ. Mục đích chính là Ngài muốn khôi phục lại hiệu quả nghiêm cấm đánh bắt cá ở Thiên Thai trước đây. Kết hợp với điềm lành ngẫu nhiên xuất hiện ở chùa Tu Thiền, lầu Hoàng Tước, cuối cùng Trần Tuyên Đế cũng thấu hiểu được tâm tư, nguyện vọng của Ngài, ra lệnh nghiêm cấm muôn dân ở gần Thiên Thai đánh bắt cá.

Trong thời gian ở Thiên Thai, Ngài không hề tiếp xúc với tầng lớp quyền quý ở Kim Lăng. Còn giờ đây, vì để duy trì việc thư từ qua lại, Ngài đành phải giao lưu tiếp xúc. Người được Trí Khải gửi thư thăm hỏi lúc bấy giờ chỉ có Từ Lăng và Mao Hỷ.

Từ năm 575 đến năm 585, cục diện nước Trần biến đổi khốc liệt. Năm 576, Bắc Chu thống nhất Trung nguyên xong, đem toàn bộ quân chủ lực ra đối phó với nước Trần. Tháng 2 năm Thái Kiến thứ 10 (578), Trần Tuyên Đế sai Đại tướng Ngô Minh thống lãnh hết thủy quân đánh phá Bành Thành (Từ Châu, Giang Tô). Đường rút quân đã bị quân Bắc Chu cắt đứt, trong lúc lui về đến Thanh khẩu (phía Tây sông Hoài, sông Tứ) lại gặp phải quân Bắc Chu đón đánh; kết quả là đại quân tan vỡ, hơn 30 ngàn tướng sĩ của Trần bị bắt sống, chỉ có vài ngàn kỵ binh về đến bờ Nam sông Hoài. Sau đó, Bắc Chu liền đem binh chuyển hướng đánh vào phía Nam sông Hoài. Đến mùa Đông năm 579, cả vùng Giang Bắc, Hoài Nam đã không thuộc quyền sở hữu của Trần nữa. Chính quyền của họ Trần ở Giang Đông giờ đây cũng sắp sụp đổ. Năm 582, Trần Tuyên Đế băng hà, con là Trần Thúc Bảo lên nối ngôi. Nhưng năm 581, ngoại thích Dương Kiên của Bắc Chu đã nắm hết quyền chánh. Ông vua dày dạn kinh nghiệm chính trị Tùy Văn Đế liền lấy việc tiêu diệt nước Trần, thống nhất đất nước, làm mục tiêu chính trị quan trọng hàng đầu của mình.

Tính đến năm 585, Trí Khải đã hoằng hóa ở nước Trần ngót 18 năm. Theo "Thiên Thai, Tu Thiền Tự, Trí Khải Thiền Sư, Phóng Sanh Bi Văn" do Tử Sái Tửu và Từ Hiếu Khắc của nước Trần soạn, thì Trí Khải rất được Trần Tuyên Đế kính trọng. Sự nghiệp hoằng pháp của Ngài đều nhờ vị vua này mà thành tựu. Đáp lại, Ngài cũng rất lo nghĩ về biên cảnh của nước Trần, đồng thời rất quan tâm đến con của Trần Tuyên Đế. Bởi vậy, năm 585, sau khi Trần Thúc Bảo lên ngôi được 3 năm, và cũng chính vào lúc Dương Kiên đang ra sức chuẩn bị binh mã, ly gián phân chia, nhằm đối phó với phương Nam, đáp lại lời thỉnh cầu của Trần Thúc Bảo, một lần nữa Ngài về lại Kim Lăng. (Còn tiếp)

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/040-trikhai.htm

 


Cập nhật: 1-5-2001

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang