-
ĐỨC AVALOKITESHVARA VÀ THẦN CHÚ SÁU-ÂM
-
Shangpa Tulku Rinpoche
- Thanh liên dịch
Lời Giới thiệu
Là kết quả của việc ta bám chấp vào một “bản ngã”, sự ô nhiễm như kiêu mạn,
tham muốn, vô minh, bủn xỉn và sân hận xuất hiện. Bởi những tà kiến và cảm
xúc này, chúng sinh thực hiện những hành động tiêu cực cột trói chính họ
vào những nỗi khổ trong sinh tử, đó là chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử.
Tất cả chư Phật kể cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong thế giới
này là để khai thị cho ta con đường giải thoát khỏi nỗi đau khổ này. Để
đạt được mục tiêu là sự Giác ngộ, một hành giả cần phải phát triển trí tuệ
và những phẩm tính của Đức Phật. Trong giai đoạn phát triển, hành giả tu
tập Bồ Tát hạnh nương tựa vào chư Phật và Bồ Tát để nhận được những giáo
lý, sự ban phước, gia hộ và quán đảnh của các Ngài. Bằng sự viên mãn của
sáu Ba la mật, những Đấng Vĩ đại hay Bồ Tát này tích tập công đức, lòng bi
mẫn, trí tuệ và phẩm tính khổng lồ, nhờ đó các Ngài đủ năng lực để cứu
giúp chúng sinh.
Một trong những vị Bồ Tát được tôn kính nhất ở Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật
bản, Hàn Quốc và Đông Nam Á là Đức Avalokiteshvara (Đức Quán Thế Âm).
Người Tây Tạng gọi Ngài là Chenrezig, người Trung Quốc gọi là Kuan Yin Pu
Sa.
Sự Đản Sinh Kỳ diệu
của Đức Avalokiteshvara trong cõi Tịnh độ Padmawati
Theo bản văn Mani Kabum, trong cõi Tịnh độ Padmawati (Liên Hoa), có một vị
Chuyển luân thánh vương tên là Zangpochog. Vị Vua này muốn có một hoàng
nam. Vua thực hiện nhiều lễ cúng dường Tam Bảo để cầu xin được chấp nhận
ước nguyện, và cứ mỗi lần cúng dường nhà vua đều sai lính hầu đi hái hoa
sen.
Có một lần lính hầu tìm thấy một hoa sen khổng lồ trong hồ. Cánh hoa lớn
như cánh chim kên kên và hoa sắp nở. Anh ta vội vã chạy về báo tin cho Vua.
Cùng với đoàn quần thần gồm các vị thượng thư, Vua đi tới hồ với nhiều vật
cúng dường. Họ tìm thấy ở đó một hoa sen khổng lồ đang nở. Giữa những cánh
hoa là một cậu bé khoảng mười sáu tuổi. Thân cậu bé có sắc trắng và tô
điểm những dấu hiệu viên mãn của một vị Phật. Ánh sáng chiếu ra từ thân
cậu. Cậu bé kêu lên: “Ta cảm thấy thương xót tất cả chúng sinh đang chịu
quá nhiều đau khổ!”
Vua và đoàn quần thần thực hiện nhiều cuộc cúng dường, lễ lạy cậu bé, và
thỉnh mời cậu về cung điện. Do sự đản sinh kỳ diệu này, nhà Vua tặng cho
cậu danh hiệu “Sinh trong Hoa Sen” hay “Tinh túy của Hoa Sen”. Vua cũng
tham khảo ý kiến Đạo sư của mình là Đức Phật Amitabha (A Di Đà) về vấn đề
này. Đức Phật bảo Vua rằng cậu bé này là một hiển lộ của tất cả những hoạt
động của chư Phật. Ngài cũng là hiển lộ của trái tim của tất cả chư Phật.
Danh hiệu của Ngài là Avalokiteshvara và Ngài đáp ứng mục đích của tất cả
chúng sinh bao la như không gian.
Sứ mệnh của Đức
Avalokiteshvara và sự hiển lộ của Sáu Đức Phật trong sáu cõi chúng sinh
Vào ngày trăng tròn, Vua thực hiện một lễ cúng dường Tam Bảo và Đức
Avalokiteshvara thật trọng thể. Vào lúc đó, Đức Avalokiteshvara nhớ lại sứ
mệnh của mình. Ngài phải giải thoát tất cả chúng sinh khỏi những đau khổ
của họ. Với lòng bi mẫn vĩ đại, Ngài đăm đăm nhìn chúng sinh trong ba cõi
dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Ngài nhận ra những ô nhiễm và đau khổ
của họ. Ngài thấy “lòng tham muốn của họ như thác nước; sân hận như một
ngọn lửa hừng hực; si mê bao phủ họ như những đám mây tối ám; kiêu mạn
thì vững chắc như ngọn núi, và sự ganh tị của họ mau lẹ như cơn gió. Giây
xích bản ngã cột trói mỗi một và toàn thể chúng sinh vào vòng sinh tử. Nỗi
đau khổ mà họ phải trải nghiệm thì như thể họ rơi vàøo đống lửa nóng đỏ.”
Đức Avalokiteshvara phát khởi lòng đại bi và từ đôi mắt Ngài những giọt lệ
tuôn rơi. Ngài thực hiện những cuộc cúng dường vĩ đại, lễ lạy và cầu xin
thập phương chư Phật chỉ dạy làm thế nào Ngài có thể làm lợi lạc tất cả
những chúng sinh này. Chư Phật đồng thanh đáp lại: “Nếu Ông muốn làm lợi
lạc tất cả chúng sinh, Ông phải được thúc đẩy bởi lòng từ ái và bi mẫn.
Đừng chán ngán công việc này. Đừng từ bỏ nó.” Ngài hỏi lại một lần nữa:
“Làm thế nào con có thể phát triển lòng từ ái và bi mẫn?” Đức Phật A Di Đà
xuất hiện để chỉ dạy cho Đức Avalokiteshvara phương pháp thực hành, và ban
quán đảnh cho Ngài để hoàn thành sứ mệnh. Với sự ban phước này, Đức
Avalokiteshvara ước nguyện xa rộng thêm nữa: “Từ mỗi lỗ chân lông của tôi,
cầu mong tôi hiển lộ chư Phật và Bồ Tát phù hợp với mọi nhu cầu của tất cả
chúng sinh. Với những hiển lộ này, cầu mong tôi giải thoát tất cả chúng
sinh không loại trừ ai. Nếu tôi chấp ngã, cầu xin đầu tôi vỡ thành từng
mảnh”. Đức Phật A Di Đà tán thán Ngài: “Tuyệt hảo. Chư Phật ba thời khắp
mười phương và ta cũng từng phát triển thái độ giác ngộ như Ông. Chúng ta
đã phát nguyện như thế và đã đạt được Giác ngộ. Ta sẽ hộ trì cho Ông.” Đức
Phật A Di Đà ban phước cho lời phát nguyện của Ngài và gia trì cho Ngài.
Hiển lộ của Sáu Đức
Phật trong Sáu Cõi
Sau đó Đức Avalokiteshvara phóng ra sáu ánh sáng từ thân Ngài tới sáu cõi
chúng sinh. Mỗi ánh sáng hiển lộ như một Đức Phật
Sáu Đức Phật là:
Đức Phật Gyajin trong cõi trời điều phục tánh kiêu mạn của tất cả các vị
trời và giải thoát họ khỏi nỗi khổ;
Đức Phật Thagzangri trong cõi bán-thần điều phục sự ganh tị và giải thoát
họ khỏi nỗi khổ của sự tranh đấu và chiến tranh liên tục;
Đức Phật Shakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) trong cõi người điều phục lòng tham
muốn của họ và giải thoát họ khỏi sinh, lão, bệnh, tử;
Đức Phật Sengye Rabten trong cõi súc sinh điều phục ô nhiễm của sự vô minh,
và giải thoát họ khỏi nỗi khổ khi bị săn bắt, ăn thịt và hành hạ;
Đức Phật Namkhazod trong cõi ngạ quỷ điều phục ô nhiễm của sự keo kiệt,
bủn xỉn, và giải thoát họ khỏi nỗi khổ khi phải chịu đựng cái nóng và lạnh
khủng khiếp và những nỗi khổ mãnh liệt khác.
Nhờ đó vô số chúng sinh đã được giải thoát.
Sự Hiển lộ của Đức
Avalokiteshvara Thiên Thủ Thiên Nhãn và Thần chú Sáu-Âm
Sau một thời gian, Đức Avalokiteshvara nghĩ rằng Ngài đã làm vơi bớt một
số đáng kể chúng sinh đau khổ. Từ Núi Tu Di, Ngài đăm đăm nhìn bằng đôi
mắt trí tuệ, Ngài thất vọng khi nhận ra rằng số lượng chúng sinh đó không
suy giảm. Ngài phóng hào quang ba lần tới sáu cõi để giải thoát tất cả
chúng sinh. Khi kiểm soát một lần nữa, Ngài lại thất vọng. Thật tuyệt vọng,
Ngài nghĩ: “Đúng như Đức Như Lai đã nói, không gian thì vô tận; chúng sinh
cũng bao la vô tận như thế. Ta đã giải thoát quá nhiều chúng sinh và tuy
thế số lượng đó không suy giảm. Samsara (sinh tử) thật vô cùng tận. Ta
phải tự giải thoát chính mình.”
Với tư tưởng thối thất này, Ngài làm gãy bể giới nguyện Bồ Tát. Đầu Ngài
vỡ ra thành một trăm mảnh. Lòng tràn trề ân hận, Ngài cầu cứu Đức Phật A
Di Đà và tất cả chư Phật: “Con đã không hoàn thành mục đích của con và của
tất cả chúng sinh, xin cứu giúp con.” Đức Phật A Di Đà xuất hiện, thâu
thập một trăm mảnh sọ vỡ và biến chúng thành mười một đầu. Ngài ban phước
cho mười đầu có diện mạo an bình và một đầu có vẻ mặt phẫn nộ để chế ngự
những kẻ không thể điều phục bằng phương tiện an bình.
Sau đó Đức Phật A Di Đà giảng dạy: “Sinh tử không có lúc bắt đầu. Sinh tử
cũng không có lúc chấm dứt. Ông phải làm lợi lạc chúng sinh cho tới khi
sinh tử chấm dứt. (1)
Rồi Đức Phật A Di Đà truyền dạy thêm cho Ngài: “Nếu Ông muốn làm vơi nỗi
khổ của sáu cõi, Ông phải truyền bá Thần chú Sáu-Âm “OM MANI PADME
HUNG”. Thần chú này sẽ làm ngừng dứt tái sinh và những đau khổ của chúng
sinh
trong sáu cõi. Mỗi một âm sẽ tiệt trừ nguyên nhân và điều kiện (duyên) để
tái sinh ở một trong sáu cõi tương ứng. “OM” sẽ tiệt trừ nhân duyên sinh
vào cõi trời.”MA” sẽ tiệt trừ nhân duyên sinh vào cõi bán thần. “NI” sẽ
tiệt trừ nhân duyên sinh vào cõi người. “PAD” sẽ tiệt trừ nhân duyên sinh
vào cõi súc sinh. “ME” sẽ tiệt trừ nhân duyên sinh vào cõi ngạ quỷ. “HUNG”
sẽ tiệt trừ nhân duyên bị sinh trong cõi địa ngục. Ông phải cam kết, bảo
vệ, trì tụng và thâm nhập thần chú này. Thần chú này sẽ làm sáu cõi trống
không.”
Đức Avalokiteshvara
Xuất hiện trong Thế giới này
Đức Phật A Di Đà đã hiển lộ sáu âm của Thần chú “Om Mani Padme Hung” trong
hình thức ánh sáng từ Núi Potala tới thế giới này. Ngài cũng truyền dạy
Đức Avalokiteshvara đi tới đó để giải thoát tất cả chúng sinh. Để báo
trước sự xuất hiện của Đức Avalokiteshvara, toàn thể thế giới ngập đầy
những dấu hiệu kỳ diệu và ánh sáng chói lọi vượt xa ánh sáng của mặt trời
và mặt trăng.
Trong thời gian này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền Pháp tại Núi
Malaya. Một vị Bồ Tát để ý thấy ánh sáng chói lọi. Ngài quỳ xuống và hỏi
Đức Phật lý do của điều này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời: “Ở phương
Tây cách đây vô lượng thế giới, có một nơi gọi là Padmawati (Liên Hoa).
Tại nơi đó có Đức Phật A Di Đà và Ngài có một vị Bồ Tát tên là
Avalokiteshvara. Bồ Tát này đã xuất hiện tại thế giới này, đi tới Núi
Potala, ở đó Bồ Tát sẽ làm lợi lạc vô số chúng sinh. Bồ Tát này là vị xuất
sắc nhất trong tất cả các Bồ Tát. Ngài hiển lộ một ngàn vị Phật trùm khắp
toàn thể vũ trụ để giải thoát tất cả chúng sinh.”
Giáo lý Thần chú
Sáu-Âm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Có một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang an trụ tại tu viện Anathapindika
(Cấp Cô Độc), tại Vườn Jeta (Kỳ Thọ), gần Shravasti (Xá Vệ Quốc) cùng đoàn
tùy tùng gồm các đệ tử của Ngài. Ngài giới thiệu vị Bồ Tát phi thường này
và Thần chú Sáu-Âm với tập hội. Một Bồ Tát tên là Sarvanivaranaviskambhim
(Trừ Cái Chướng) thỉnh cầu Đấng Tôn quý. Bồ Tát đảnh lễ và kêu lên: “Vì
lợi lạc của chúng sinh trong sáu cõi, xin chỉ dạy cho con làm thế nào con
để có được Thần chú Vĩ đại này, là trí tuệ của tất cả chư Phật. Thần chú
này sẽ chặt đứt những gốc rễ của sinh tử. Kính mong Đức Phật ban cho con
giáo lý này. Con cúng dường toàn thể vũ trụ như Mạn đà la. Đối với tất cả
những ai ước nguyện biên chép Thần chú Sáu-Âm này, con cúng dường máu của
con để làm mực, xương để làm bút và da con làm giấy viết. Xin Đức Phật ban
cho con giáo lý Thần chú Sáu-
Âm này.”
Sau đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban giáo lý: “Đây là thần chú lợi lạc nhất.
Ngay cả ta cũng đã phát nguyện này trước tất cả một triệu Đức Phật và sau
đó nhận lãnh giáo lý này từ Đức Phật A Di Đà.”
Những Lợi ích của Thần
chú Sáu-Âm
Công đức của Thần chú Sáu-Âm thật vô lượng và ngay cả chư Phật trong ba
thời cũng không thể mô tả hết. Một số những lợi ích này là:
1. Bất kỳ ai bảo vệ thần chú này, thân thể họ sẽ biến thành thân kim cương,
xương biến thành xá lợi của Đức Phật và tâm thức bình thường của họ sẽ
biến thành trí tuệ của chư Phật.
2. Bất kỳ ai trì tụng thần chú này dù chỉ một lần sẽ đạt được trí tuệ vô
biên. Cuối cùng họ sẽ phát triển lòng bi mẫn và hoàn thiện sáu Ba la mật.
Họ sẽ được sinh ra làm một Chuyển luân thánh vương. Họ sẽ thành tựu cấp
bậc bất thối chuyển của Bồ Tát và cuối cùng đạt được Giác ngộ.
3. Nếu thần chú này được khắc trên đá và những ngọn núi, khi một con người
hay phi-nhân xúc chạm và nhìn thấy thần chú, người ấy sẽ phát triển nguyên
nhân để trở thành một Bồ Tát trong đời sau, bằng cách ấy làm vơi dịu những
đau khổ của họ.
Ta được dạy rằng có thể tính đếm được vô lượng cát sông Hằng và những giọt
nước của đại dương nhưng công đức của việc trì tụng Thần chú Sáu-Âm thì
không thể đo lường được.
Thần chú Sáu-Âm là hiển lộ của ngôn ngữ và năng lực trí tuệ của tất cả chư
Phật. Nó tịnh hóa tri giác bất tịnh của ta về âm thanh. Nó cũng là một
phương tiện để bảo vệ tâm ta khỏi những niệm tưởng mê lầm. Nó chặt đứt vô
minh và khai mở trí tuệ của ta. Nó làm tăng trưởng vô lượng sự ban phước
và khiến ta có thể đạt được an bình. Thần chú này có thể cứu giúp và làm
nguôi dịu hàng trăm và hàng ngàn khổ đau và khốn khó của chúng sinh.
Đối với một số người thì âm thanh của thần chú này thật không thể nghĩ bàn.
Tuy nhiên, Bồ Tát đã phát nguyện và tích tập vô lượng công đức, trí tuệ và
phương tiện thiện xảo để cứu giúp chúng sinh. Ngài có chiếc “móc” để giải
thoát chúng sinh. Nếu chúng ta có niềm tin chân thành và sâu xa ở Ngài và
nỗ lực trong việc thực hành Pháp, thì coi như ta có “một cái vòng chắc
chắn và không bị gãy đứt.” Nhờ chiếc vòng của niềm tin, Đức
Avalokiteshvara có thể “câu móc” chúng ta thoát khỏi những đau khổ.
Do đó, ta nên đưa Đức Avalokiteshvara vào tâm thức ta thật tôn kính, và
trì tụng Thần chú Sáu-Âm thật chân thành và rõ ràng. Mọi nhu cầu thế gian
và xuất thế gian của ta sẽ được đáp ứng.
Đức Avalokiteshvara ở
Tây Tạng
Ngày xưa, khi vị Vua Tây Tạng là Lha Thothori Nyentsen đang ở trong Cung
điện Yumbu Lagang thì từ trên trời một chiếc hộp nhỏ rơi xuống mái cung
điện. Hộp được mở ra và để lộ pho Kinh Những Nghi thức của sự Từ bỏ và
Hoàn thành (spang-skong phyag-brgya-pa’imdo), một bản khắc Đà-ra-ni Viên
Ngọc Như Ý (Cintamanidharani), Kinh Những Phẩm tính Phong phú của Đức
Avalokiteshvara (Aryakaranda-sutra), Thần chú Sáu-Âm, và một stupa (tháp)
vàng. Nhà vua không biết những Kinh sách đó là gì, nhưng hiểu rằng
chúng thật tốt lành. Vua có một giấc mộng lành là sau năm thế hệ nữa,
người ta sẽ thấu hiểu ý nghĩa của “những vật tốt lành”.
Vị vua thứ năm sau Lha Thothori Nyentsen là Vua Songtsen Gampo. Ngài cưới
công chúa Brikuti xứ Nepal và công chúa Trung Hoa đời Đường tên là Wen-Cheng
(Văn Thành). Mỗi bà công chúa mang một pho tượng Thích Ca Mâu Ni tới Tây
Tạng và giới thiệu văn hóa Phật Giáo với xứ này. Đức Vua cảm thấy việc
mang giáo lý Phật Giáo tới cho thần dân ngài thật cần thiết. Ngài phái
Thonmi Sambhota tới Ấn Độ để học văn phạm và chữ viết. Sau này Thonmi
Sambhota phát minh ra mẫu tự và văn phạm Tây Tạng dựa trên Phạn ngữ. Bản
Kinh Phật Giáo đầu tiên được dịch từ Phạn ngữ sang tiếng Tây Tạng là Hai
mươi mốt Kinh và Tantra (Mật điển) của Đức Avalokiteshvara. Sau đó, nhiều
giáo lý Phật Giáo quan trọng khác cũng đựơc phiên dịch.
Vua và thần dân của ngài dấn mình vào thực hành của Đức Avalokiteshvara.
Kinh điển được thâu thập và chôn dấu trong những kho tàng riêng biệt. Về
sau, những Đạo sư thành tựu là Ngodrup, Nyang và vị thầy Shakya-O đã khám
phá những kho tàng này. Những kho tàng được biết tới là Những Tác phẩm
được Tuyển chọn của Đức Vua liên quan tới Thần chú “Om Mani Padme Hum” (mani
bka-bum).
Nhiều Đạo sư vĩ đại ở Tây Tạng trong quá khứ và hiện tại đã truyền bá giáo
lý của Đức Avalokiteshvara cho môn đồ của họ. Có nhiều sadhana (nghi quỹ)
được các Đạo sư vĩ đại như thế biên soạn. Trong quá trình thực hành, đích
thân các ngài đã nhận lãnh những giáo lý từ Bổn Tôn. Nhiều hành giả Tây
Tạng tuân thủ những phương pháp thực hành này để thành tựu trạng thái của
Đức Avalokiteshvara và giải thoát bản thân họ khỏi những đau khổ của luân
hồi sinh tử. Họ cũng dẫn dắt những người khác tới con đường viên mãn này.
Nhiều tu viện và ni viện cũng hướng dẫn những khóa nhập thất tịnh hóa hàng
năm (Nyungne) (3), những Khóa Trì tụng Thần Chú Long trọng cho tu sĩ và cư
sĩ. Các Đạo sư cũng khuyến khích việc đúc Thần Chú Sáu-Âm trên những bánh
xe cầu nguyện, v.v.. để tích tập công đức. Người Tây Tạng tin rằng tất cả
những việc làm này sẽ hỗ trợ cho họ trong tiến trình con đường tâm linh
của họ. Họ tin rằng Đức Avalokiteshvara là vị cứu tinh và đấng bảo hộ của
họ, trong khi Vua Songtsen Gampo là một Hóa Thân của Đức Avalokiteshvara,
và hai vị phối ngẫu của Đức Vua là những Hóa Thân của hai Đức Tara. (Xin
đọc “Bài Nguyện Đức
Chenrézi” của vị vua này ở cuối bài).
Đức Avalokiteshvara ở
Trung Quốc
Mặc dù Phật Giáo đến Trung Hoa từ triều Đông Hán, nhưng nó chỉ trở nên phổ
biến và có ảnh hưởng tại xứ này trong đời Đường. Nhiều tín đồ của Đạo Phật
đã hành hương tới Ấn Độ để nghiên cứu từ cội nguồn của giáo lý. Người nổi
danh nhất trong những khách hành hương đời Đường này là Đạo sư Huyền Trang.
Sử sách ghi lại rằng trong cuộc hành trình của ngài tới Ấn Độ, ngài lạc
lối trong sa mạc nhưng đã nỗ lực tìm thấy đường đi nhờ kêu cầu sự gia hộ
của Đức Avalokiteshvara.
Trong Phật Giáo Trung Hoa, có hai tông phái chính liên quan tới giáo lý và
thực hành của Đức Avalokiteshvara. Tông Thiên Thai giảng dạy Kinh
Saddharmapundarika hay Kinh Pháp Hoa. Trong một trong những chương của
Phẩm Phổ Môn “Pu Mien Pin”, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng vị Bồ
Tát này có năng lực hiển lộ khắp mọi nơi và trong bất kỳ hình tướng nào để
cứu giúp chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Ngài sẵn sàng đáp ứng tất cả những
ai gặp phải hiểm nguy như những nguy hiểm do vũ khí, xiềng xích, lửa đỏ,
quỷ ma, những vách đá và sông nước gây ra. Đức Phật cũng dạy rằng nếu một
phụ nữ ước muốn có một đứa con thì người ấy nên cầu nguyện Bồ Tát với sự
tôn kính, bà ta sẽ hạ sinh đúng lúc một đứa trẻ được phú bẩm những sự ban
phước, đức hạnh và trí tuệ theo sự chọn lựa của bà.
Tông phái khác là Tịnh Độ tông phổ biến giáo lý của Kinh A Di Đà. Theo
Kinh này, do bởi lòng bi mẫn và từ ái vô biên, Đức Phật A Di Đà đã thiết
lập một Cõi Phật Thanh tịnh cho tất cả chúng sinh. Ngài nguyện rằng bất kỳ
ai có niềm tin tuyệt đối ở Ngài và cõi Tịnh Độ sẽ được tái sinh ở đó.
Trong cõi Tịnh Độ đó, là phụ tá cho Đức Phật A Di Đà, Đức Avalokiteshvara
luôn luôn sẵn sàng đi bất kỳ nơi nào để dẫn dắt những người tín tâm tới
cõi giới của sự thanh tịnh và cực lạc. Tính chất đơn giản của giáo lý này
hấp dẫn và làm rung động trái tim của những ai đang tìm kiếm an bình và
hạnh phúc. Với sự truyền bá tông phái thực hành này, Đức Phật A Di Đà và
Đức Avalokiteshvara còn được yêu quý hơn nữa. Một câu Tục ngữ Trung Hoa
được truyền tụng: “A Di Đà ở khắp mọi nơi; Quán Thế Âm ở khắp mọi nhà.”
Hiện nay sự sùng bái vị Bồ Tát này được kết hợp hết sức chặt chẽ với
truyền thống và niềm tin của người Trung Hoa. Điều này có thể được chứng
minh từ sự thay đổi giới tính của Bồ Tát từ nam thành nữ. Những bức họa
khám phá ở Dun-huang (Ðơn Hồng) đã miêu tả Bồ Tát là một người nam có râu
mép. Đôi khi Ngài cũng được mô tả có mười một đầu, một ngàn mắt và một
ngàn tay. Tuy nhiên, sau thời kỳ này Bồ Tát được biểu lộ như một nữ nhân
mặc y phục trắng gọi là Bạch Y Quán thế Âm. Ta có thể biện minh cho sự
thay đổi như thế bởi Kinh điển Đại thừa dạy rằng một Bồ Tát có thể mang
bất kỳ thân tướng và hình dạng nào để cứu giúp chúng sinh.
Những hành giả
Avalokiteshvara
Tiểu sử của các Đạo sư vĩ đại luôn luôn là một nguồn cảm hứng bất tận.
Những hoạt động giác ngộ của các ngài làm lợi ích vô số chúng sinh. Ở đây
chúng tôi giới thiệu hai Đạo sư vĩ đại đã thực hành giáo lý của Đức
Avalokiteshvara và đã đạt được Giác ngộ.
Một trong những Đạo sư vĩ đại là Gelongma Palmo (hay Tỳ khưu ni Lakshmi)
sống vào thế kỷ thứ mười hay mười một. Bà sinh trong một gia đình hoàng
tộc của Vương quốc Ấn Độ, và xuất gia khi còn trẻ. Bà thọ nhận nhiều giáo
lý từ những Đạo sư vĩ đại trong thời đại của bà và thực hành thật tinh tấn.
Do nghiệp quá khứ chín mùi, bà bị mắc bệnh phong cùi và bị mọi người ném
vào rừng. Bà có một một thị kiến về Vua Indrabodhi, (2) ngài khuyên bà
thực hành pháp Avalokiteshvara.
Bà đã trì tụng những thần chú của Đức Avalokiteshvara và về sau liên tục
thực hành nhập thất Nyungne (3) trước hình tượng của Bồ Tát này. Nhờ lòng
sùng mộ và tinh tấn thực hành, bà đã có thể khỏi bệnh phong cùi. Bà cũng
phát triển lòng từ ái và bi mẫn lớn lao đối với tất cả chúng sinh. Bà trở
thành một ni cô giác ngộ và đã dẫn dắt nhiều đệ tử trong thực hành của Đức
Avalokiteshvara.
để dẫn dắt chúng sinh trong thực hành của Đức Avalokiteshvara. Bản văn này
được tìm thấy trong mọi trường phái Phật Giáo Tây Tạng.
Ngài có thể nhớ lại đời trước ngài là Gelong Padma Karpo (hay Tỳ kheo Bạch
Liên). Trong đời đó, từ năm 20 tới 80 tuổi, ngài đã thực hành Nhập thất
Nyungne Avalokiteshvara thật kiên định. Thậm chí ngài còn có thể nhớ được
ngài đã khẩn cầu Đại Bồ Tát này ra sao. Lời khẩn cầu này được ghi lại
trong những lời cầu nguyện Phật giáo và được truyền tới ngày nay.
Sau khi giác ngộ, ngài cũng khám phá nhiều kho tàng giáo lý được cất dấu,
và đã giới thiệu giáo lý của Đức Phật cho nhiều người. Ngài đã tô tạo vô
số hình tượng, Kinh sách và các stupa (tháp) tượng trưng cho thân, ngữ và
tâm của Đức Phật. Ngài đã thiết lập hơn một trăm cầu phà và cầu treo bằng
sắt để làm lợi lạc chúng sinh. Để khuyến khích thiện hạnh trong dân chúng
và để hỗ trợ cho phí tổn của công việc xây dựng, ngài đã miêu tả cuộc đời
của những Bồ Tát trong quá khứ trong những vở nhạc kịch dân gian. Trong
thời đại của ngài, mọi hoạt động của ngài thật không thể nghĩ bàn.
Kết luận
Theo Giáo lý của Đức Phật, việc được nhận lãnh giáo lý của Đức
Avalokiteshvara và Thần chú Sáu-Âm thì cực kỳ khó khăn. Nhờ công đức đã
tích tập, chúng ta có thể nghiên cứu về Đức Avalokiteshvara, tiến trình
phát triển, sứ mệnh vĩ đại và sự thành tựu của ngài. Chúng ta cũng nghiên
cứu về những công đức không thể nghĩ bàn của Thần chú, chúng ta nên hoan
hỉ và trân quý cơ hội hy hữu này.
Nếu chúng ta trì tụng Thần chú giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử
này, ta sẽ có thể tịnh hóa những ác hạnh của ta, quét sạch những che
chướng và hoàn thiện Bồ Đề tâm của ta. Do đó chúng ta nên:
Coi Đức
Avalokiteshvara là Bổn Tôn của ta,
Trì tụng Thần chú
Sáu-Âm như thần chú cốt tủy,
Giải thoát khỏi nỗi sợ
của việc đi xuống những cõi thấp.
Với điều này tôi hoàn tất bài giảng về Đức Avalokiteshvara và Thần chú
Sáu-Âm với một đoạn kệ từ Ba mươi bảy Thực hành của Một Bồ Tát:
Bởi công đức phát sinh
từ điều này, cầu mong tất cả chúng sinh
Nhờ phương tiện của Bồ
Đề tâm tuyệt đối và tương đối,
Trở thành Đấng Bảo hộ
Avalokiteshvara, bậc không an trú trong
Những đối cực của vòng
luân hồi sinh tử (4) và sự cứu giúp riêng lẻ. Cầu mong công đức và những
điều tốt lành tăng trưởng!
Hồi hướng Công đức
Kinh sách
có nói rằng:
“Không
ai sở hữu được Phật Pháp
Ngoại
trừ những người kiên trì thực hành Pháp.”
Cầu mong
công đức của tặng phẩm Phật Pháp này được chia sẻ cho tất cả chúng sinh.
Cầu mong
tất cả những ai có mối quan hệ với Đức Avalokiteshvara
có thể gặp
được giáo lý của Ngài,
và cầu xin
mọi người phát triển lòng đại bi
và từ ái
của Ngài đối với mọi chúng sinh.
Cầu xin
tất cả chúng sinh có thể đi theo vết chân ngài
Để Thành
tựu Giác ngộ.
Việc tán
thán Đức Avalokiteshvara,
Lắng nghe
Thánh hiệu và nhìn thấy thân tướng của Ngài
Sẽ giải
thoát chúng sinh khỏi mọi nỗi thống khổ.
Shangpa Rinpoche
Giảng tại Trung tâm Phật Giáo
Karma Kagyud, Singapore.
Nguyên tác: “Arya Avalokitesvara and the
Six Syllable Mantra”
by
Venerable Shangpa Rinpoche.
http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/chemin/medit/methodes/avalokitesvara_shangpa1.htm
Sadhana
Đức Chenrézi
Làm Không gian Ngập đầy Lợi ích của chúng
sinh
Bài Nguyện Quy y và Bồ
Đề tâm: (lập lại ba lần)
Sangyé cho tang tsok kyi chok nam la
Nơi Phật, Pháp và Tăng Siêu việt
Changchup par du da ni kyab su chi
Con quy y cho tới khi đạt được Giác ngộ.
Da ki jin sok gyipé sonam kyi
Nhờ công đức của việc thực hành bố thí và
những ba-la-mật khác,
Dro la
pen chir sangyé drubpar sho
Cầu mong con thành tựu Phật Quả để làm
lợi lạc chúng sinh.
Quán tưởng:
Da sok ka kyap semchen kyi
Trên đỉnh đầu con và vô lượng chúng sinh,
Chitsuk pékar dawe teng
Trên một bông sen trắng và đĩa mặt trăng,
Hri lé pakchok chenrezi
Xuất hiện chữ Hrih, từ đó hiển lộ Đức
Chenrézi cao quý và siêu phàm.
Kar sel oser nga den tro
Ngài có sắc trắng chói ngời, phóng ra ánh
sáng năm màu,
Dzumden tukché chen kyi zi
Và mỉm cười với cái nhìn bi mẫn.
Chak shi tangpo teljar dzé
Bốn bàn tay Ngài, hai tay trước chắp lại,
O nyi sheltreng pékar nam
Hai tay dưới cầm một chuỗi pha lê và bông
sen trắng.
Tar tang rinchen gyen kyi tré
Ngài mặc y phục lụa là và những vật trang
sức quý báu,
Ridak pakpé toyok sol
Và một mảnh da nai choàng trên vai.
Opamépé u gyen chen
Đức A Di Đà tô điểm đỉnh đầu Ngài.
Shab nyi dorjé kyiltrung shuk
Ngài an tọa trong tư thế kim cương,
Drimé dawar gyap tenpa
Lưng tựa vào một đĩa mặt trăng bất nhiễm.
Kyapné kundu ngowor kyur
Ngài hiện thân tinh túy đích thực của mọi
sự quy y.
Tưởng tượng rằng bạn
và tất cả chúng sinh cầu nguyện cùng một giọng, trì tụng ba, bảy, hay càng
nhiều lần càng tốt:
Jowo kyonkyi mako kudok kar
Đức Chenrézi, sắc trắng thuần khiết,
không bị những khiếm khuyết làm hoen ố,
Dzok sangyé kyi u la gyen
Đỉnh đầu Ngài được tô điểm bởi Đức Phật
toàn giác,
Tukjé chen kyi dro la zi
Ngài nhìn chúng sinh với đôi mắt bi mẫn
Chenrézi la chatsel lo
Xin kính lễ Đức Chenrézi!
Detar tséchik sol tabpé
Nhờ lời cầu nguyện nhất tâm này,
Pakpé ku lé ozer tro
Ánh sáng phóng chiếu từ Đấng Cao quý,
Matak lé nang trulshé jang
Tịnh hóa những tri giác mê lầm phát khởi
từ nghiệp bất tịnh:
Chi no déwachen kyi shing
Thế giới trở thành Cõi Cực Lạc,
Nang chu kyédroi lu nga yi
Thân, ngữ và tâm của chúng sinh
Chenrézi wang ku sung tuk
Trở thành Thân, Ngữ và Tâm của Đức
Chenrézi siêu phàm,
Nang trak rik tong yermé gyur
Hình tướng, âm thanh và giác tánh bất khả
phân với tánh Không.
Khi thiền định về điều
này, hãy trì tụng thần chú:
Om mani pémé hung hri
Sau khi trì tụng càng
nhiều càng tốt, hãy an trụ trong bản tánh cốt tủy, thoát khỏi những ý niệm
về chủ thể, đối tượng và hành động.
Dakshen lu nang pakpé ku
Thân con và những người khác xuất hiện
như thân tướng của Đấng Cao quý,
Dra trak yiké trukpé yang
Những âm thanh là điệu du dương của thần
chú Sáu Âm,
Trentok yeshé chenpoi long
Những hồi ức và niệm tưởng là sự trải
rộng của đại trí tuệ.
Hồi hướng:
Géwa diyi nyur tu da
Nhờ công đức của sự tu tập này
Chenrézi wang drup gyur né
Cầu mong con nhanh chóng thành tựu Đức
Chenrézi,
Drowa chik kyang malupa
Và không bỏ sót một chúng sinh nào,
Té yi sa la gopar sho
Cầu mong con kiến lập tất cả chúng sinh
trong mức độ của họ.
Thiền định và trì tụng
về Đấng Bi mẫn Vĩ đại, “Làm Không gian Ngập đầy Lợi ích của Chúng sinh” do
đại thành tựu giả Tangtong Gyalpo biên soạn. Sadhana này được phú tặng với
những sự ban phước. Sarwa Mangala.
Bài Nguyện Đức
Chenrezi
Namo Lokeshvaraya
Tukjé zikshik jikten wangchuk shap
Đấng cai quản siêu phàm của thế giới, xin
đoái hoài tới con với lòng bi mẫn!
Gonkyap dzochik jétsun tukjé ter
Đấng tôn quý, kho tàng của lòng nhân từ,
xin làm nơi nương tựa (quy y) của con!
Solwa depso panchok chenrézi
Đức Chenrézi cao quý nhất, con khẩn cầu
Ngài.
Tamé korwé gyamtso chenpo lé
Từ đại dương sinh tử bao la,
Drolwé depon dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin dẫn dắt con trong khi
vượt tới bờ kia.
Mishé timuk munpé tiptsa na
Khi con bị vô minh và lầm lạc ngăn che,
Selwé dronmé dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là ngọn đèn chói lọi.
Drala shedang metar bartsa na
Khi con bừng bừng sân hận đối với kẻ thù,
Shiwé chugyun dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin làm một dòng suối an
tịnh.
Nyenla dochak chushin druktsa na
Khi con là xoáy nước hấp dẫn nồàng nhiệt
đối với những người thân cận con
Neluk tokpar dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin giúp con hiểu được bản
tánh của sự sống.
Norla sernai dupé damtsa na
Khi con mệt nhoài bởi trói buộc của việc
bám chấp vào của cải,
Tongwé nyerpa dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là người quản gia của
sự nhàm chán.
Ludi chungshi nekyi zintsa na
Khi thân xác tứ đại này trở nên bệnh hoạn,
Menpé gyelpo dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là bậc y vương.
Chikar tsershing jigdrak jungtsa na
Khi nỗi khủng khiếp và hãi sợ của cái
chết xuất hiện,
Shelton semso dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin an ủi con bằng cách cho
con thấy dung nhan Ngài.
Drokmé bardo trang la khyamtsa na
Khi con lang thang cô độc trên con đường
bardo khúc khuỷu,
Jelwé ngoshé dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là bạn đồng hành tôn
kính của con.
Mangpoi kyilné chikpur drotsa na
Vào giờ chết con phải ra đi một mình, bỏ
lại bằng hữu và gia đình,
Dagpé shingtu kyol chik chenrézi
Đức Chenrézi, xin dẫn dắt con tới những
cõi thuần tịnh (Sukhavati).
Ngelgo lekyi dungel jungtsa na
Khi con đau đớn trong thai tạng,
Okyi gur khang pupchik chenrézi
Đức Chenrézi, xin dựng một chiếc lều ánh
sáng.
Mishé chipé lusu gyurtsa na
Khi con mang thân xác của một đứa trẻ dốt
nát,
Drokchok shenyen dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là người dẫn đường và
bằng hữu tâm linh của con.
Tagtu chiwor gomshing soldep na
Khi con cầu nguyện và thiền định,
Tsawai lamar dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là guru gốc trên đầu
con.
Nyingka pemor gomshing gyeten na
Khi con thiền định,
Yidam lhachog dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là vị heruka trên bông
sen trắng trong trái tim con.
Chinang gelkyen barché jungtsa na
Khi những chướng ngại và khó khăn xảy ra
ở ngoài và trong,
Shiwé chokyong dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin là vị Hộ Pháp an bình
của con.
Trekom dungel nekyi zintsa na
Khi con chịu đói và khát,
Chido ngodrup tsolchik chenrézi
Đức Chenrézi, xin ban cho con thành tựu
mà con mong muốn.
Kyepé tala chiwa ngepar ong
Và lúc cuối cuộc đời, cái chết là điều
chắc chắn,
Ma ong lungten dzochik chenrézi
Đức Chenrézi, xin báo trước số phận của
con.
Lhang lhang yigé drukmé soldep na
Trong lúc trì tụng rõ ràng thần chú Sáu
Âm,
Gyuntu tukjé zikshik chenrézi
Đức Chenrézi, xin nhìn xuống với lòng bi
mẫn.
Gewa diyi sangyé gopang chok
Cầu mong con đạt được Phật địa siêu việt
Nyur du top par dzochik chenrézi
Nhờ công đức của lời cầu nguyện này và sự
ban phước của Đức Chenrézi.
Đây là một bài nguyện cốt tủy được rút ra
từ tác phẩm của Pháp vương Songtsen Gampo.
Pagpa chenrézi wang tukjé ter
Kho tàng của lòng bi mẫn mãnh liệt,
Kordang chepa dagla gongsu sol
Đức Chenrézi cao quý, xin nhớ tưởng tới
con
Da dang pama rigdruk semchen nam
Con khẩn cầu Ngài dẫn dắt tất cả chúng
sinh trong sáu cõi,
Nyur du korwé dzo lé dreltu sol
Những bậc cha mẹ của con và bản thân con,
mau chóng vượt qua đại dương sinh tử,
Kyewa didang tserab tamché du
Trong đời này và mọi cuộc đời chúng con.
Drowé gonpo chenrézi wang gi
Được chỉ dạy trong con đường cao quý
không thể sai lạc
Ma nor lamzang ngonsum tené kyang
Nhờ năng lực của Đức Chenrézi, vị cứu
tinh của chúng sinh,
Nyur du sangyé sala shagtu sol
Cầu mong con mau chóng đạt được trạng
thái Phật Quả.
Trích “Tuyển Tập các Thực Hành”, dịch từ nguyên bản “Collection of
Practices” by Padmakara Translation Group.
Chú thích:
(1)
Trong “Vật Trang hoàng Quý báu của sự Giải thoát”, Đức Gampopa đã
nói rằng “không chấm dứt” có nghĩa là phải cần tới một thời gian rất dài
để giải thoát tất cả chúng sinh nhưng điều đó không có nghĩa là việc giải
thoát vĩnh viễn không thể thực hiện được. Từ quan điểm của một chúng sinh
bình thường, đối với chúng ta, samsara – vòng sinh tử - thì quá dài khi
nhìn nơi nó bắt đầu và chấm dứt. Tuy nhiên, đối với tất cả chư Phật hay
những Đấng giác ngộ thì đó chỉ là một ảo tưởng, và ảo tưởng không có tính
đồng nhất của sự hiện hữu hay không hiện hữu. Mọi người đều có thể quét
sạch ảo tưởng này, bởi nó không chứa dựng bất kỳ chân lý nào trong đó.
Trong văn cảnh này, nó có nghĩa là “Đức Avalokiteshvara phải làm lợi lạc
tất cả chúng sinh cho tới khi tất cả họ được giải thoát.”
(2)
Vua Indrabodhi là người đầu tiên nhận lãnh giáo lý Kim Cương thừa
từ Đức Phật và cũng là vị thánh thứ 84.
(3)
Nyungne (phiên âm là NYUNG NAY) là một thực hành chay tịnh đặc biệt
để tịnh hóa và làm tươi mới được các hành giả của tất cả bốn trường phái
chính của Phật Giáo Tây Tạng thực hành.
Nyungne gồm có hai ngày thực hành và một
thời khóa kết thúc ngắn vào sáng ngày thứ ba.
(4)
Niết bàn
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/Duc_avalokiteshvara_thanchu6am.htm