Anh quốc (England), một quốc gia
dân chủ lập hiến nằm ở phía Tây-Bắc Châu Âu. Diện tích 244.046 km2,
dân số 59 triệu người (thống kê năm 1994). Cuộc cách mạng kỹ thuật
vào giữa thế kỷ 17 đã đưa Anh quốc trở thành nước tư bản phát triển
sớm nhất ở châu Âu. Trước cuộc Đại chiến lần thứ hai, Anh là một
đế quốc có nhiều thuộc địa ? các châu lục. Lãnh thổ khối đế quốc
Anh rộng 34,6 triệu km2, dân số 700 triệu người. Sau Thế chiến thứ hai
(1939-1945), trước phong trào giải phóng dân tộc, đế quốc Anh đã nhanh
chóng tan rã. Hiện nay chỉ còn một số ít thuộc địa và lãnh thổ phụ
thuộc, phần lớn là các đảo. Tên gọi đầy đủ là Vương quốc Liên hiệp
Anh và Bắc Ailen (Ái Nhĩ Lan).
Phật giáo phát xuất từ miền Đông-Bắc Ấn Độ vào TK
thứ 6 trước Tây lịch. Sau đó được truyền bá đến vùng Tây Bắc Ấn,
nơi có sự giao lưu với châu Âu. Vào TK thứ 3 trước TL, Hoàng đế Asoka,
một ông vua Phật tử vĩ đại nhất thế giới, đã gởi nhiều đoàn truyền
giáo đến vùng Tây Bắc và các lãnh thổ tự trị như Xiri, Ai Cập,
Macedonia, Cyrene và Epirus. Tuy nhiên, chưa có một bằng chứng thỏa đáng
nào về việc những mật sứ truyền giáo để lại nơi họ đã lưu trú.
Nhưng Con đường Tơ lụa băng qua Bactria đến châu Âu, những câu chuyện về
sau được tìm thấy trong sách của Aesop và La Fontaine, đã khẳng địng
được mối giao lưu giữa Đông và Tây trong những ngày đầu.
Phật giáo được truyền đến Anh quốc vào những năm 70 của
TK 19 qua một số học giả châu Âu. Một trong những học giả đầu tiên
đó là ông A. Csoma De Koros (1784-1842) người Hungari, đã dành nhiều năm nghiên
cứu ngôn ngữ và tôn giáo ở miền Bắc Ấn Độ, rồi đem những hiểu biết
của mình cống hiến cho người châu Âu. Trong thời gian này, một người
Anh khác, ông Brian Hodgson, nhân viên thuộc địa Anh tại Nepal, trong 20 năm,
ông đã thực hiện được một bộ sưu tập lớn về kinh Phật bằng chữ
Sankrit chép tay trên lá bối và ông đã tặng nó cho nhiều thư viện lớn
trên thế giới. Bài viết của ông về Phật Giáo ở Nepal được xuất hiện
lần đầu tiên trên tờ Royal Asiatic Society vào năm 1830. Trong số những
người cùng làm việc với Hodgson lúc ấy có Eugene Burnnouf, người Pháp, cũng
viết một cuốn sách giáo khoa giới thiệu về Phật Giáo taị Ấn Độ.
Năm 1850, bài viết của Spence Hardy : "Đời sống tu viện của người
phương Đông" (Eastern Monasticism), một bài tường thuật chi tiết về
đời sống của Tăng sĩ Phật Giáo ở châu Á, và đến năm 1858, cuốn
"Sách chỉ nam của Phật Giáo" (Manual of Buddhism), được ấn hành,
một bản dịch từ tiếng Pàli.
Năm 1855, tại Đan Mạch bản dịch Dhammapada (kinh Pháp Cú) của
Fausboll được xuất bản (xb). Đây là một tác phẩm Pàli hoàn hảo đầu
tiên được in tại phương Tây. Năm 1871, Samuel Beal, in quyển "Kinh Phật",
dịch từ tiếng Trung Hoa, và năm 1878, W. Rockhill cho in quyển "Cuộc đời
của đức Phật", bản tiếng Anh đầu tiên về đức Phật, tư liệu lấy
từ Tây Tạng. Cũng trong năm 1878, giáo sư Phys David xb cuốn sách "Cuộc
đời và lời dạy của đức Phật" (The Life and Teachings of Gautama
Buddha). Trong giai đoạn này, một tác phẩm nổi tiếng và phổ biến nhất
là quyển "Ánh sáng Á châu" (The Light of Asia) của Edwin Arnold
(1832-1904), một thi phẩm viết về đức Phật Thích Ca được ông dựa vào
quyển Lalitavistara (có từ TK thứ 5) để biên soạn. Đây là một tác phẩm
trứ danh ở phương Tây và đến nay nó được chuyển ngữ ra nhiều thứ
tiếng trên thế giới, (bản Việt dịch "Ánh sáng Á châu" do Đoàn
Trung Còn dịch, Phật học Tùng Thư xb năm 1964). Ông E. Arnold sing ngày
10/6/1832 tại Grevesend. Sau khi tốt nghiệp Đại học Oxford, ông được cử
đến làm việc trong Bộ Giáo Dục cho chính quyền thuộc địa Anh tại Ấn
Độ. Trong thời gian năm năm làm việc tại đây, ông đã để tâm nghiên cứu
kinh sách Phật Giáo và đã viết nhiều sách về Phật Giáo theo cái nhìn của
ông. Có thể nói ông là một trong những người có công lớn trong việc
truyền bá tư tưởng Phật Giáo đầu tiên tại Anh .Ngoài "Anh sáng Á
châu", những tác phẩm chính của ông là "Ánh sáng Á châu", những
tác phẩm chính của ông là :Ánh sáng của thế giới" (xb năm 1891),
"Biển và đất liền" in năm 1891...
Năm 1875, R. C. Childers in quyển "Từ điển Pàli". Đây
là tác phẩm do một người trẻ tuổi biên soạn, đã gây cảm hứng cho
Giáo sư Tiến sĩ T. W. Rhys Davids (1843-1922) thành lập Hội Pàli Text tại
Luân Đôn vào năm 1881. Giống như nhiều học giả Phật Giáo châu Âu khác,
R. Davids bắt đầu sự nghiệp của mình là một viên chức của Hoàng gia
Anh làm việc cho cách chính quyền thuộc địa ở trong vùng Nam Á. Trải qua
một thời gian nghiên cứu và học hỏi giáo lý đạo Phật ở Tích Lan,
Davids đã quyết định chấm dứt con đường danh vọng của mình mà đi vào
con đường học thuật và nghiên cứu. Ông đã đậu bốn bằng tiến sĩ và
cống hiến trọn đời mình cho công trình nghiên cúu và phiên dịch kinh tạng
Pàli. Đến năm 1881, ông cùng với vợ là bà Caroline thành lập Hội Pàli
Text. Đây là một tổ chức đầu tiên có liên hệ đến Phật Giáo tại
Anh với sự tham gia của nhiều học giả nổi tiếng châu Âu và Tích Lan,
để nghiên cứu, phiên dịch và ấn hành kinh điển của Phật Giáo từ
Pali ra tiếng Anh. Tính đến nay (1997), hội này đã phiên dịch và ấn hành
được 45 bộ kinh Phật, trong đó quan trọng nhất là toàn bộ Tam tạng
Nguyên thủy (Pàli Tipitaka). Hiện nay, tổ chức này vẫn hoạt động mạnh
do Tiến sĩ R. F. Gombrich làm Chủ tịch. Ngoài việc tham gia phiên dịch kinh
điển, ông Davids còn biên soạn những sách có giá trị như "Từ điển
Pàli-Anh", gồm 800 trang, in lần thứ nhất năm 1921 và được tái bản
vào các năm 1925, 1992 và 1995; "Những câu hỏi của vua Milinda" (xb
1890) ; "Phật giáo, lịch sử và văn học" (xb 1896) ; "Những pháp
thoại của đức Phật" (xb 1899) ; "Phật giáo Ấn Độ" (xb
1903)...
Đến năm 1900, Phật Giáo tại Anh bắt đầu có dấu hiệu
chuyển mình. Hai tổ chức Phật Giáo không chính thức ra đời, đó là hai
Hội Thông Thiên học ở Luân Đôn và chi nhánh của bà Blavatsky ở Hoa Kỳ.
Hai hội này không những giảng dạy giáo lý mà còn thỉnh nhiều pháp sư
đến Anh cũng như cung cấp nhiều sách báo Phật Giáo cho Phật tử Anh đọc.
Nếu đây là phong trào gieo hạt giống Bồ đề thì chính nó đã giúp phá
vỡ vùng đất cứng cỏi của Nữ hoàng Victoria. Bằng cách mở tung lãnh vực
tôn giáo để phân tích hợp lý về vấn đề đạo đức trong khoa học đối
với nhân sinh. Phong trào hoài nghi đã nảy sinh và chính nó đã dọn đường
cho Phật giáo trên đất Anh.
Bánh xe pháp bắt đầu chuyển vận, ông Allan Bennet
(1872-1923), năm 1890 nhân đọc được quyển "Ánh sáng Á châu", ông
lập tức quy y theo Phật Giáo. Năm 1898, ông đến Tích Lan để học Phật,
đến năm 1902 ông qua Miến Điện xuất gia tu học với pháp danh là Ananda
Metteyya. Ông đã thành lập Hội Phật Giáo Quốc tế tại Rangoon và cho xb tờ
"Buddhism", một tờ báo Phật Giáo tiếng Anh trội hơn các tờ báo
lúc bấy giờ. Một trong những người đầu tiên đọc được tờ báo đó
ở Anh quốc là J. F. M. Kechnie, một người Tô-Cách-Lan, đã phát tâm xuất
gia tu học. Trong lúc đó, năm 1905, R. I. Jackson, cũng đã giác ngộ nhờ đọc
"Ánh sáng Á châu", ông cùng mộy người bạn mở một nhà bán
sách Phật Giáo ở gần công viên Regent, Luân Đôn để phổ biến giáo lý,
hai ông cũng tổ chức những buổi thuyết giảng ngay tại nhà sách của
mình.
Trong thời gian này, "Hội Phật Giáo Anh và Ailen"
(Buddhist Society of Great Britain and Ireland) đã ra đời, do GS Rhys Davids sáng lập
và làm Chủ tịch. Buổi họp mặt đầu tiên của Hội này tại Luân Đôn
là ngày 03/10/1907. Một bản hiến chương của Hội được soạn thảo và
thông qua, mô hình tổ chức giống như Hội Phật Giáo Quốc tế ở Miến
Điện. Hội đã cho xuất bản tạp chí "Buddhis t Review" để phổ
biến giáo lý, tờ báo được sự cộng tác của nhiều cây bút nổi tiếng
ở nước ngoài như Tiến sĩ D. T. Suzuki, bà David Neel, ngài A. Dharmapala...
Vào ngày 23/4/1908, một phái đoàn Phật Giáo đầu tiên viếng thăm Anh quốc
từ Miến Điện do ĐĐ Ananda Metteyya làm trưởn đoàn cùng với các đệ tử
người Miến của Ngài. Đây là chuyến viếng thăm quê nhà đầu tiên của
Ngài sau 10 năm xuất gia tu học ở nước ngoài. Vì Tỳ kheo 36 tuổi này với
dáng vẻ tao nhã, rực rỡ trong chiếc y màu vàng cam đã tạo cho Ngài một
hình ảnh hấp dẫn lạ thường trên đường phố Luân Đôn. Sau sáu tháng
hoằng pháp tại quê hương, Ngài đã trở lại Miến Điện cùng với người
bạn thân là Tiến sĩ Ernest Rost. Sau Thế chiến thứ I, Ngài trở về Anh một
lần nữa để khôi phục lại những sinh hoạt Phật sự đã bị đứt đoạn
trong thời chiến. Năm 1923, NXB Kegan Paul đã in quyển "Trí tuệ của
Aryas", một tuyển tập những bài giảng của Ngài ở Anh quốc, đến
tháng 3 năm 1923 Ngài viên tịch tại Luân Đôn.
Vào tháng 10 năm 1924, "Hội Phật giáo Luân Đôn"
(London Buddhist League) ra mắt tại Luân Đôn do ông Christmas Humphreys khai sáng
và làm Hội trưởng. Tổ chức này đã cho xuất bản tờ báo "Buddhism
in England" (Phật Giáo tại Anh), đến năm 1934 tờ báo này được đặt
tên là "The Middle Way" (Trung Đạo), đến nay (1997) báo vẫn còn
phát hành. Hội đã xây dựng một thiền đường ơ Lancaster Gate cho Phật tử
Anh đến tu học.
Đến tháng 9 năm 1925, Đại đức Dharmapala (Tích Lan), một Tăng sĩ Theravada
nổi tiếng của Phật Giáo thời bấy giờ, đã viếng thăm "Hội Đại
Bồ đề Luân Đôn", một chi nhánh thuộc tổ chức của Ngài ở Ấn Độ.
Chi nhánh này cũng đã có công lớn trong việc hoằng pháp tại Anh. Họ đã
mở nhiều lớp giáo lý, ấn tống kinh sách và phát hành tờ báo mang tên
"British Buddhist" (Phật Giáo Anh), về sau đổi thành tờ "The
Wheel" (Pháp Luân), đến nay vẫn phát hành.
Năm 1926, Hội Phật Giáo Anh đã ấn hành quyển sách giáo
khoa "Đạo Phật là gì?" (What is Buddhism?), một tác phẩm đã được
tái bản nhiều lần. Năm 1928, ba Tăng sĩ Tích Lan đến thăm hoằng pháp tại
Hội Đại Bồ đề Luân Đôn, trưởng đoàn là Ty kheo P. Vajiranãna, sau đó
Ngài đã theo học chương trình tiến sĩ triết học tại Đại học
Cambridge.
Cho đến lúc ấy, Phật Giáo Theravada tại Anh đã ổn định
và chứng minh được sự có mặt của mình. Người Anh lại tiếp tục chịu
ảnh hưởng của Phật Giáo Mahayana qua những tác phẩm thiền của tiến sĩ
D. T. Suzuki (người Nhật), thiền sư Tai Hsu (người Hoa). Những tác phẩm của
Suzuki đã nhanh chóng gây cảm giác lạ lùng và chinh phục ngay người Anh, lập
tức nhiều người đã hướng theo pháp tu này. Rõ ràng, những tác phẩm
thiền của Suzuki đã tạo ra sự ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng Anh
và chính nó đã mở đường cho các trường phái Mahayana Tây Tạng, Trung
Hoa, Việt Nam, Triều Tiên tiến vào Anh quốc.
Trong thập niên ba mươi, Phật Giáo Anh tiếp tục phát triển,
các nhà lãnh đạo Phật Giáo Anh như Francis Payne, B. L. Broughton và H. N.
Hardy đã sang Thụy Sĩ để khai mở Phật Giáo cho xứ sở này. Tháng 9 năm
1934, Đại hội Phật giáo châu Âu lần thứ nhất được tổ chức tại trụ
sở của Hội Phật Giáo Anh trong hai ngày.
Tiếp đó, chiến tranh thế giới lần thứ II (1939-1945) xảy
ra, bom nổ ở Luân Đôn, các hội đoàn Phật Giáo ở Anh phải đóng cửa.
Nhiều thành viên bị giết, một số khác tyạn ở nước ngoài. Với sự
đau khổ của chiến tranh, mọi người đã tìm về với Phật Giáo qua giáo
lý duyên sinh, vô ngã và nhân quả để tìm sự yên ổn cho tâm hồn. Đại
lễ Phật Đản vào năm 1940 là một buổi lễ Phật Giáo lớn nhất chưa từng
có ở quốc gia này.
Năm 1945, Hội Phật Giáo Anh Quốc đã chuẩn bị những chương
trình hoạt động cho thời hậu chiến. Đó là việc dời trụ sở của Hội
đến số 101 đường Great Russel gần Viện Bảo tàng Anh. Thư viện được
sửa sang lại và nhận được nhiều sách mới, thành viên của Hội được
gia tăng. Lúc bấy giờ, vị trí của Hội ở Anh quốc đã được khẳng định.
Hội tiếp tục giữ vững lập trường không tham gia vào hoạt động chính
trị và quyết tâm loại bỏ chủ nghĩa tông phái, Hội không lệ thuộc
vào một tông phái Phật Giáo nào mà mở rộng cho tất cả những ai muốn
học hỏi và tu theo Phật Giáo. Và như là một tổ chức lâu đời nhất và
lớn nhất ở châu Âu, Hội đã trở thành một nơi gặp gỡ và có công
truyền bá Phật Giáo khắp Anh quốc và Bắc Aí nhỉ lan. Tuy nhiên, chiến
tranh đã cắt đứt mọi liên lạc và đến năm 1946 mới khôi phục trở lại.
Mở đầu năm 1946, Hội đã ấn hành một loạt kinh sách, đáng chú ý nhất
là "Kinh Kim Cang" (The Diamond Sutra) bản dịch tiếng Anh của Arnold
Price; "Cốt tủy của đạo Phật" (Essence of Buddhism) của tiến sĩ
D. T. Suzuki.
Năm 1950, nhà xuất bản Penguin Book lần đầu tiên đã ấn
hành 40.000 quyển "Đạo Phật" (Buddhism) của A. S. M. Glover, một thành
viên của Hội. Sự thành công của tác phẩm đã làm ngạc nhiên nhà xuất
bản cũa Hội. 350.000 bản được bán ra ngay sau khi phát hành là một thước
đo cho sự phát triển Phật Giáo tại Anh quốc. Trong thời gian này, có nhiều
hội Phật Giáo mới thành lập ở Cambrigde, Brighton và Edinburgh. Năm 1952, một
trường Hạ được tổ chức tại Oxford do TT người Anh Kapilavaddho thuộc Hội
Phật Giáo Manchester tổ chức, khóa Hạ đã quy tựu khoảng 150 Tăng Ni và cư
sĩ ở khắp Anh quốc về tu học. Năm 1956, Hội Phật Giáo Anh dời trụ sở
về số 58 đường Eccleston Square, gần nhà ga Victoria. Đây là một dinh thự
lớn gồm một chánh điện, một giảng đường, một phòng dạy giáo lý
và một số văn phòng làm việc... Đến nay (1997), trụ sở trung ương này
vẫn còn duy trì tại nơi đây.
Năm 1956,Hội Phật Giáo Anh được nhiều phái đoàn Phật
Giáo thế giới viếng thăm, đặc biệt có đại sư Suzuki, đó là lần viếng
thăm Anh quốc cuối cùng của Ngài. Cũng trong năm này, Hội đã đi dự Đại
hội lần thứ 7 của Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế giới tổ chức ở
Nepal, nhân dịp này Hội đã ghé thăm Phật Giáo Ấn Độ. Năm 1967, Hội
Thiện Hữu Tăng Già Tây phương ra đờim do ĐĐ Sangharakshita Sthavira, một
Tăng sĩ người xu?t gia tu học tại Ấn về nước thành lập Hội này. Mục
tiêu của hội là xây dựng một trung tâm để dẫn đến Phật tử Anh muốn
xuất gia tu học.
Trong ba thập niên 70, 80 và 90 là thời kỳ phát triển mạnh
nhất của Phật Giáo tại Anh quốc. Sự phát triển này đã được Hội Phật
Giáo Anh thống kê trong một quyển sách hướng dẫn du lịch vào năm 1994,
nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Hội (1924-1994). Sách in đẹp, giới
thiệu ngắn gọn về từng hội đoàn, tu viện, trung tâm Phật Giáo ở Anh
quốc và Bắc Ái nhỉ lan. Theo cuốn sách này, người ta thấy có hơn 200 hội
đoàn và tu viện Phật Giáo ở tại xứ sở này, gồm 140 tu viện thuộc Phật
Giáo Mahayana, 40 tu viện thuộc Theravada và 100 trung tâm tu học theo truyền
thống Kim Cương thừa của Tây Tạng. Về mặt in ấn và phát hành kinh
sách thì có 7 nhà in Phật Giáo, 22 nhà phát hành và 6 thư viện Phật Giáo
trên toàn quốc. Riêng về Phật Giáo Việt Nam tại Anh thì có hai chùa (theo
tư liệu hiện có của người viết), đó là Tu viện Linh Sơn Anh quốc do Hòa
thượng Thích Huyền Vi khai sáng và Trung tâm tu học A Di Đà ở Newcastle do
Hòa thượng Thích Nhất Hạnh thành lập.
Thỉnh thoảng có một số tờ báo muốn biết số lượng tín
đồ Phật tử Phật Giáo tại Anh và câu trả lời bao giờ cũng giống
nhau, rằng không thể nào biết được con số chính xác là bao nhiêu. Phật
Giáo ở Tây phương vẫn được xem là một phần của đời sống riêng tư
hơn là một vấn đề chung cho sinh hoạt tập thể. Chính vì thế mà sự
phát triển Phật Giáo tại Anh không mang tính đồng bộ. Vấn đề được
đặt ra hiện nay là làm thế nào để phát triển và thống nhất được
Phật Giáo trong tương lai ? Nhiều người cho rằng điều đó một phần sẽ
tùy thuộc phương cách hoằng pháp của các nhà lãnh đạo trong thế hệ mới,
một phần là tùy thuộc vào sự thức tỉnh của người phương Tây đối
với chân lý và giá trị mà đạo Phật đã đem lại cho họ. Thật là mỉa
mai khi nói rằng tư tưởng của người phương Tây đang bị bế tắc khi họ
đạt đến đỉnh cao của khoa học. Nhưng đó là sự thật, và tất cả
các khuynh hướng tư tưởng đang thay đổi rất nhanh. Có ba yếu tố khiến
cho người phương Tây hướng về đạo Phật mà các nhà nghiên cứu đã
ghi nhận. Thứ nhất, theo người phương Tây, Phật Giáo được xem là một
trường phái quy nạp. Tuy có nhiều tông phái khác nhau nhưng vẫn có một
điểm chung nhất, đó là mục tiêu giải thoát và giác ngộ. Mục tiêu ấy
không phải là siêu hình, mà mọi người tu học Phật đều có thể cảm
nhận và đạt được nếu họ chịu đi vào con đường thực nghiệm. Thứ
hai, lời Phật dạy khiến cho con người có một tâm hồn bao dung và nhân hậu
nhất được tìm thấy trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Chưa bao
giờ trong lịch sử của Phật Giáo, người ta thấy có ai đó bị đàn áp
hoặc bức tử vì những giáo điều hay đức tin của họ ; và ở Phật
Giáo cũng vắng mặt bất cứ một sức mạnh, quyền vi nào vì sự tồn tại
của nó. Mỗi người và mọi người đều được khuyến khích đi tìm
chân lý bên trong họ. Phật Giáo vốn không phải là một đạo cứu rỗi và
ngay cả Phật cũng từng khẳng định "Ta chỉ là người dẫn đường".
Tâm hồn bao dung như vậy rất xa lạ với những suy nghĩ theo kiểu phương
Tây và chính điều ấy đã gây một ấn tượng lớn cho tất cả những ai
được tiếp xúc với đạo Phật. Thứ ba, đạo Phật đặt nặng vấn đề
giải thoát tự thân, nó có khả năng thu hút tất cả những ai hơn một lần
tìm về với nó. Đạo Phật cũng rộng mở cho những ai phạm phải sai lầm
mà biết quay đầu sám hối. Như vậy, đạo Phật có thể chưa là một phần
trong tư tưởng phương Tây hiện tại, nhưng chắc chắn đạo Phật sẽ đóng
góp một vai trò quan trọng trong tư tưởng phương Tây ở tương lai.