...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Phật
Giáo tại Đức
Thích Nguyên Tạng
Đức (Germany), là một quốc gia ở
Trung Âu. Sau đại chiến thế giới thứ hai, Đức bị chia làm hai nước :
Cộng hòa Dân chủ Đức ở phía Đông và Cộng hòa Liên bang Đức ở phía
Tây. Hiện nay, Đức đã thống nhất thành một quốc gia với dân số 80
triệu người và diện tích 356.000 km2. Mật độ dân cư : 217,2 người/km2 ;
tuổi thọ trung bình 76 ; tử suất trẻ em: 8% ; thu nhập bình quân đầu
người : 24.000 đô la.
Trong những thập niên gần đây, Phật giáo (PG) đã trở
nên phổ biến ở quốc gia này, nhiều người đã quy y và nhiều người khác
đã xuất gia tu học và làm công tác truyền giáo. Tuy nhiên, lịch sử PG tại
Đức vẫn còn rất mới mẻ. Thế kỷ thứ XIX là mốc thời gian có thể
đó là lúc PG được truyền vào châu Âu qua các bài báo của người du lịch
và nhân viên thuộc địa đang làm việc tại Á châu. Giới triết gia, nghệ
sĩ và trí thức Đức là những người đầu tiên quan tâm đến tôn giáo mới
này. Điều đó không có gì phải ngạc nhiên, vì nước Đức vốn đã nổi
tiếng trên thế giới như là một quốc gia của các đại thi hào và triết
gia lừng danh như Kant, Schopenhauer, Herder, Hegel, Nietzche, Goethe, Schilla,
Hessa... là những con người được khâm phục và nể vì trên khắp thế giới.
* Các tổ chức truyền bá Phật giáo tại Đức
Về mặt truyền giáo, tại Đức có phần hơn các quốc gia láng giềng, điều
đó rất cần thiết để phân biệt về các tổ chức truyền bá PG từ sự
phân phối tự nhiên của nền triết học PG và các hình thức tu tập thiền.
Hội PG đầu tiên được thành lập tại Đức vào năm 1903 tại thành phố
Leipzig, đó là Giáo hội Phật giáo Đức (Deutsche Buddhistische Union) do đạo
hữu Kant Seidenstuker (1876-1936) sáng lập và lãnh đạo. Hội đoàn này,
không phải thuần là một đoàn thể của cộng đồng Phật tử Đức, mà
chỉ là một tổ chức cung cấp giáo lý PG cho giới trí thức Đức. Vì mục
đích này mà Hội đã thành lập một nhà in tại Leipzig và cho phát hành một
tờ tạp chí có tên là Buddhistische (Phật giáo) để phổ biến chủ
trương và quan điểm của mình. Sau thế chiến thứ nhất (1914-1918), vào năm
1924, bác sĩ y khoa Paul Dahlke (1865-1928) đã thành lập một Trung tâm PG (TTPG)
ở Berlin-Frohnau lớn nhất ở Đức. Lúc bấy giờ, những buổi thuyết giảng
của bác sĩ Dahlke đã thu hút nhiều người đến nghe. Ông cố gắng giới
thiệu giáo lý Vô ngã (Non ego) qua lăng kính của khoa học hiện đại. Một
cộng đồng PG khác được thành lập vào năm 1931 bởi hai đạo hữu Georg
Grimm (1868-1945) và Kant Seidenstucker tại thành phố Munich. Ông Grimm không tán
thành khuynh hướng của bác sĩ Dahlke về một sự diễn dịch mới trong giáo
lý; vị đạo hữu này cố gắng khôi phục lại giáo lý nguyên thủy của
Phật giáo để tìm ra lời dạy đích thực cho đời sống hiện tại. Thông
qua hoạt động truyền giáo này của Grimm, lần đầu tiên quan niệm tín ngưỡng
được giới thiệu tại Đức. Đây là một cộng đồng tôn giáo mà nhiều
người đã tự gọi mình là Phật tử và thọ trì năm giới cấm của nhà
Phật. Năm 1935, Hội PG Theravada ra đời, cũng do đạo hữu Georg Grimm sáng lập
và lãnh đạo, trụ sở của hội đặt tại Citting trên bờ hồ Ammer. Hội
này đã cho ấn hành một tờ nguyệt san và quyển "Lời dạy của Đức
Phật, Tôn giáo của lý trí" (The Teachings of The Buddha, The Religion of
Reason), một tác phẩm của đạo hữu G. Grimm.
Tất cả các hội đoàn PG trên đã bị cấm hoạt động
dưới thời thống trị của chính quyền Nazi (1933-1945) do Adol' Hitler
(1889-1945) cầm quyền. Đến thời kỳ hậu chiến, có nhiều tổ chức PG ra
đời. Tại Stuttgart, năm 1952, cộng đồng PG được thành lập, đến năm
1955, cộng đồng này và nhiều hội đoàn PG khác được khôi phục và thống
nhất với danh xưng "Giáo hội Phật giáo Đức" (German Buddhist
Union), đây là một tổ chức đã tập hợp và thống nhất tất cả các hội
đoàn PG trên khắp nước Đức. Nhiều tạp chí và báo của hội lần lượt
ra đời, hiện nay nổi bật nhất là hai tạp chí tiếng Đức "Liên
hoa" (Lotusblatter) và "Những người thời hiện đại" (Mitwelt).
Năm 1992, Hội cùng với Giáo hội Phật giáo châu Âu (European Buddhist Union)
tổ chức hội nghị tại thủ đô Berlin; và cuối tháng 10 năm 1945, hội
cũng đã tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm từ ngày thành lập tại Munich.
* Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống tinh thần của
người Đức
Sự thừa nhận các tôn giáo lớn ở phương Đông được truyền bá trong
đời sống tinh thần của người Đức. Cho dù Herder, Kant và Hegel đã dành
nhiều thời gian cho các tôn giáo khác và triết học Ấn, nhưng hiểu biết
của các nhà tư tưởng này quá hạn chế đến nỗi họ hầu như không thể
phân biệt được sự khác biệt giữa Ấn giáo và PG. Chẳng hạn, ông
Hegel hay nhầm lẫn hình ảnh ngồi thiền của Đức Phật với vị thần
Krishna của Ấn giáo. Tuy vậy, lời kết luận của Hegel rằng những triết
thuyết của Phật giáo vẫn tốt hơn Ấn giáo. Thực tế, trong lời phê
bình của Hegel về Ấn giáo, thì ông cho rằng tôn giáo đó như là "thuốc
phiện của mọi người" (The opium of plepeo). Về sau, Karl Marx sử dụng
khái niệm này để nói đến một tôn giáo lớn ở phương Tây, Thiên Chúa
giáo. Còn đối với PG, ông Hegel giới thiệu như là một tôn giáo dẫn
đường.
Có lẽ tầm ảnh hưởng của PG trong xã hội Đức đáng lưu
tâm nhất vào cuối thế kỷ XIX là thông qua triết thuyết của Arthur
Schopenhauer (1788-1860), một triết gia người Đức. Ông biết đạo Phật và
triết học Ấn trong thời gian còn là sinh viên học ở Berlin. Về sau, ông
là bạn thân của nhiều học giả PG phương Tây như Schleiermacher (người
Đức), Isaak Jakob Schmidt (người Nga), Eugene Burnouf (người Pháp).... Trong thế
giới triết học, ông nổi lên với tác phẩm "Thế giới là ý chí và
biểu tượng" (The World as Will and Idea). Ông quan niệm rằng "Con người
vĩ đại không phải là kẻ chiến thắng mà là con người từ bỏ khát vọng
của ý chí". Bộ sách (hai cuốn) này đã giúp cho mọi người hiểu về
triết thuyết của ông. Đặc biệt trong cuốn hai, ông có đề cập đến
Phật giáo và triết học Ấn. Tuy nhiên theo ông, những gì ông viết về Phật
giáo chỉ là bước khởi đầu. Ông nói: "Đến năm 1818, khi tác phẩm
của tôi xuất hiện, ở châu Âu có rất ít bài viết về PG. Do đó, những
gì tôi viết về PG là không đầy đủ và chưa hoàn chỉnh". Những năm
cuối đời, ông dành nhiều thời gian để học kinh Kim Cương (Diamond Sutra,
qua bản dịch của Issak Jakob Schmidt), và nghiên cứu giáo lý Niết bàn trong
PG.
Sau Schopenhauer có Friedrich W.Nietzsche (1844-1900), một triết
gia vô thần Đức và là cha đẻ của thuyết siêu nhân, có ảnh hưởng sâu
sắc đến tư tưởng triết học tư sản phương Tây sau Immanuel Kant. Qua nhiều
bài viết của mình, ông Nietzsche đã thừa nhận mình là học trò và là người
chịu ảnh hưởng tư tưởng PG qua Schopenhauer. Ông Neitzsche cũng rất quan tâm
đến giáo lý Niết bàn.
Sự ảnh hưởng PG trong đời sống văn hóa Đức rõ ràng,
nhất là bởi những tài liệu sách báo về PG do chính người Đức viết.
Nhiều người đã trở thành Phật tử thông qua những hoạt động văn hóa
của họ, rồi họ thành lập những trung tâm PG thiền ở các cộng đồng
dân cư. Ông Kanl Eugen Newmann, một học giả người Áo, đã cho in một tuyển
tập các bài pháp thoại của Đức Phật theo hệ Nikaya. Rồi đến năm
1879, ông Friendrich Max Mueller (1823-1900) cho xuất bản cuốn kinh Phật bằng
tiếng Anh. Ông cũng là một trong những thành viên có công gây dựng Hiệp
hội Thánh điển Pàli tại Anh quốc. Một người Đức khác có công truyền
giáo là ông Hermann Oldenberg (1854-1920), người đầu tiên viết về lịch sử
truyền đạo của Đức Thích Ca Mâu Ni cho thế giới phương Tây qua cuốn
Đức Phật-Cuộc đời, lời dạy và Giáo đoàn của Ngài (Buddha-His Life,
His teaching and His Order) xuất bản năm 1881. Viết cuốn sách này đạo hữu
Oldenberg muốn lên tiếng bác bỏ luận thuyết sai lầm của một học giả
nào đó có ý cho rằng, một người được lịch sử gán cho một danh hiệu
nổi tiếng "Buddha" (Phật) chưa bao giờ hiện hữu trên cõi đời này.
Theo vị học giả này, Đức Phật chỉ là một nhân vật biểu trưng của
Phật giáo. Trong khi đánh đổ luận thuyết đó, ông Oldenberg đã đưa ra
nhiều chứng cứ lịch sử về cuộc đời tu đạo và hành đạo của Đức
Phật. Ông muốn khẳng định rằng Đức Thích Ca là một Đức Phật lịch
sử chứ không phải là một Đức Phật huyền thoại. Quyển sách đã nhanh
chóng nổi tiếng và phổ biến khắp nước Đức. Đến nay, quyển sách đã
tái bản hơn 14 lần và danh hiệu "Gotama Buddha" rất quen thuộc với
người dân châu Âu ngay từ lúc ấy. Có thể nói rằng, ông Oldenberg đã khơi
dậy sự quan tâm đến PG của các học giả phương Tây đối với những bộ
kinh thuộc hệ Nikaya. Đó là giáo sư Luders, Von Lasenapp, F.Weller, Nobel,
Walleser Waldschmidt... đã để tâm nghiên cứu kinh điển hệ Pàli ; trong đó
có một số vị quan tâm đến các kinh Sanskrit. Đặc biệt cũng có nhiều
công trình nghiên cứu về PG, phát triển bởi ba-bốn nhóm nhỏ, đứng đầu
các nhóm này là Lạt Ma người Đức Anagarika Govinda.
Nhiều bộ kinh Pàli đã được phiên dịch sang tiếng Đức,
quan trọng và nổi bật nhất là đã chuyển ngữ và ấn hành hoàn chỉnh năm
bộ kinh hệ Nikaya. Những người có công trong công trình lịch sử này là
những học giả và dịch giả tên tuổi như K. E. Newmann. K. S. Seidentucker,
H. Oldenberg, E. O. Franker, Nyanatiloka Thera, D. Dalhke và Kurt Schmidt. Đặc biệt,
trong số những học giả nghiên cứu kinh Phật và sau đó khoác áo tu, nổi
bật trong số đó có đạo hữu Walter Florus Gueth, một tín đồ Ky tô ở
Hesser, đã đến xuất gia và tu học ở Tích Lan, vào năm 1903 với pháp danh
là Nyanatilok ; Ngài là một tác giả và dịch giả PG nổi tiếng của 20
tác phẩm trong các thứ tiếng Đức (15 quyển), Anh (6 quyển), Pháp (2 quyển),
Pàli (2 quyển), Tích Lan (1 quyển). Các dịch phhẩm tiếng Đức nổi tiếng
của Ngài gồm có Tăng Chi bộ kinh (Anguttara Nikaya), kinh Pháp Cú (Dhammapala),
Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga). Trưởng lão Nyanatiloka cũng là người
có công lớn trong việc đào tạo Tăng tài cho phương Tây khi thành lập một
tu viện tại Tích Lan. Kế thừa sự nghiệp hoằng pháp của trưởng lão
Nyanatiloka là Tỷ kheo Nyanaponika, cũng là một trí thức Đức, đã phát tâm
xuất gia và về sau trở thành một Tăng sĩ nổi tiếng ở châu Âu với nhiều
tác phẩm Phật học cả tiếng Anh lẫn tiếng Đức. Một Tăng sĩ người
Đức khác là Lạt Ma Anagarika Govinda, (thế danh là Ernst Lothar Hoffmann), xuất
gia tại Tích Lan vào năm 1928 với Trưởng lão Nyanatiloka và được huấn
luyện theo truyền thống Theravada. Tuy nhiên, hai mươi năm sau, Ngài đã chuyển
sang tu tập theo truyền thống Kim Cương thừa của PG Tây Tạng. Trong quá
trình hoằng pháp tại quê nhà, Ngài đã có những đóng góp quyết định
cho PG Đức. Ngài cũng là tác giả nhiều tác phẩm có giá trị nổi bật
trong số đó là quyển "Con đường mây trắng" (The Way of The White
Clouds). Một phụ nữ châu Âu đầu tiên trở thành nữ tu PG là nghệ sĩ đàn
piano Else Buchholz, con gái một vị chủ ngân hàng Đức, cô đã đến Tích
Lan vào năm 1926, xuất gia và tu học với pháp danh là Uppalavanna.
Giới trẻ Đức cũng trở về với PG qua tác phẩm nổi tiếng
"Siddarta" (Sĩ Đạt Ta) của Hermann Hess (1877-1962), một nhà thơ, nhà
văn từng đoạt giải Nobel văn chương năm 1946. Sau khi từ bỏ mọi nghiên
cứu về Tin Lành giáo, H. Hess bắt đầu tiếp xúc với Phật học và triết
học Ấn, và chẳng bao lâu ông đã chinh phục bởi giáo thuyết này. Ông
nghiên cứu PG và văn hóa Á Đông qua ba lần viếng thăm Sri Lanka và
Indonesia vào năm 1911. Kết quả của những công trình nghiên cứu đó đã
giúp ông cho ra đời cuốn Sĩ Đạt Ta, xuất bản năm 1922 và nó đã nhanh
chóng được đón nhận một cách nồng nhiệt bởi giới trẻ Đức và lập
tức được chuyển ngữ ra nhi?u thứ tiếng trên thế giới (bản dịch Việt
ngữ với tựa đề "Câu chuyện dòng sông" do Phùng Khánh và Phùng
Thăng dịch, Lá Bối in lần đầu tiên năm 1965).
Phật giáo Việt Nam tại Đức :
Như nhiều cộng đồng khác, phần lớn người Việt đến định cư tại
Đức vào giữa những năm bảy mươi của thế kỷ này. Hiện tại có khoảng
100.000 người Việt định cư tại đất nước này. Do chính sách phân bố
của chính quyền Đức, nên người Việt ở Đức chỉ ở rải rác nhiều
vùng khác nhau trên khắp nước Đức. Dù vậy, người Việt ở Đức đoàn
kết và có nhiều hoạt động để khôi phục văn hóa và ngôn ngữ Việt,
chẳng hạn, họ có khoảng 40 tờ tuần báo và Nguyệt san tiếng Việt và
20 chương trình phát thanh tiếng Việt để phục vụ cho cộng đồng.
Về tình hình PGVN tại Đức, cũng như cộng đồng của mình, PGVN đã từng
bước ổn định, phát triển và đi sâu vào xã hội Đức. Hiện tại có 7
ngôi chùa và 14 chi hội Phật tử do người Việt chủ xướng, có tất cả
8 đơn vị Gia đình Phật tử (xin mời vào xem trang nhà của GDPT Minh Tâm
theo địa chỉ: http://www.stud.uni-hannover.de/~loc), gồm 500 đoàn sinh và 50
huynh trưởng và có khoảng 40 vị Tăng Ni đang lưu trú tu học tại Đức.
Lãnh đạo tinh thần PGVN tại Đức hiện nay là Thượng Tọa
Thích Như Điển, viện chủ Chùa Viên Giác ở thành phố Hannover. Thượng tọa
đến Đức hoằng Pháp vào năm 1977 sau nhiều năm du học ở Nhật Bản. Lúc
đầu, Thượng tọa thành lập một Niệm Phật Đường Viên Giác tại
thành phố Hannover để hướng dẫn tín đồ tu học. Nhưng vì nhu cầu tu học
và chiêm bái của Phật tử tại gia ngày càng đông, nên Thượng tọa đã
xin phép chính quyền Liên Bang Đức một khu đất rộng lớn hơn để xây
chùa, cuối cùng Bộ Nội Vụ Liên Bang Tây Đức đặc trách về Tôn Giáo
và Văn Hóa đã chấp thuận việc trên, nên chùa Viên Giác được dời về
một vùng khác cũng ở Hannover vào năm 1981. Tại đây, TT.Như Điển đã
làm lại từ đầu và tiến hành xây dựng cho cơ sở hoằng pháp mới . Qua
nhiều năm làm việc cật lực, cuối cùng Chùa Viên Giác đã hoàn thành
vào năm 1991 với tổng chi phí là chín triệu Đức Mã ( tương đương khoảng
năm triệu rưỡi Mỹ kim) .
Hiện tại, chùa Viên Giác được xem là di bảo của PGVN
ở nước ngoài , là Trung tâm Văn hóa PG tại Đức quốc với một điện
Phật chứa khoảng 700 người cùng một lúc; một thư viện rộng lớn gồm
nhiều loại Kinh sách khác nhau bằng nhiều ngôn ngữ như Việt, Anh , Pháp,
Đức, Nhật, Trung Hoa… đặc biệt thư viện này có cả bộ Đại Tạng
Kinh chữ Hán thỉnh từ Đài Loan vào năm 1981 gồm 100 quyển, mỗi quyển dày
độ 2.500 trang qua sự tài trợ chi phí của chính quyền Đức; một nhà
máy in dùng để in những sách báo của PG và những hoạt động văn hóa, từ
thiện…. Tất c? sở phí của nhà in như máy móc, giấy mực... cũng được
chính quyền Đức tài trợ. Nhờ vậy mà tờ tạp chí Viên Giác vẫn phát
hành đều đặn trong 21 năm qua, tính đến nay đã phát hành được 110 số,
mỗi kỳ là 5000 số (sáu kỳ mỗi năm).
Hằng năm chùa Viên Giác thường tổ chức những đại lễ
như Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên đán… quy tụ trên dưới 50.000 người
Việt lẫn người bản xứ trên khắp nước Đức về dự.
Đặc biệt, chùa Viên Giác đặt nặng vấn đề bảo tồn
và phát huy văn hóa PG và văn hóa Việt Nam tại Đức, chùa đã tổ chức
in ấn và phiên dịch nhiều tác phẩn PG ra tiếng Đức và ngược lại, riêng
Thượng Tọa Như Điển đã cho ấn hành hơn 20 tác phẩm (cả tiếng Việt
lẫn tiếng Đức) của mình để phổ biến cho Phật tử Đức đọc. Năm
1998, Chùa Viên Giác còn mở thêm một trang báo điện tử gồm ba thứ tiếng
Việt , Đức và Pháp để phổ biến giáo lý cho Phật tử khắp nơi đọc.
Địa chỉ vào xem là : http://www.comlink.apc.org/pvg và địa chỉ liên lạc
Chùa Viên Giác hiện nay là :, Karlsruher Str 6, 30519 Hannover, Germany. Tel :
05.11.879630 ; Fax : 05.11. 8790963.
Hiện nay, có khoảng 20 tăng sinh người Việt lẫn người
Đức đang theo tu học tại chùa Viên Giác, dưới sự dẫn dắt của TT.Như
Điển. Đó là một điều lạc quan cho tương lai PGVN tại Đức trong việc
phát triển Chánh Pháp tại xứ sở này. Nhìn chung, PGVN tại Đức đang trên
đà lớn mạnh dưới sự lãnh đạo nhiệt tâm và tận tụy của Thượng Tọa
Thích Như Điển.
Có thể nói, Phật giáo Theravada đã ảnh hưởng rất lớn trong các cộng
đồng PG Đức ở giai đoạn đầu mới truyền giáo. PG Mahayana, bao gồm Nhật
Bản, Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam… đã trở nên phổ biến sau thế chiến
thứ hai. Từ những năm sáu mươi trở đi, Thiền học PG đã lan tỏa khắp
đất nước này; các tác phẩm Thiền của Tanable Hajime, Hisamatsu Shinichi,
Rudolf Otto, Eugen Herrigel, August Faust và đặc biệt là D. T. Suzuki, được phát
hành rộng rãi để cung ứng cho trào lưu học và tu thiền ở Đức. Từ đó
đến nay, nhiều trung tâm thiền đã lần lượt ra đời và nhiều Thiền sư
ở Á châu được cung thỉnh sang Đức để tuyên dương pháp môn này.
Nếu năm 1962 tín đồ PG Đức chỉ có 2.000, thì hiện nay (1999) con số
đó đã được nâng lên hơn 70.000 người (số lượng được chính quyền
liên bang thống kê và thừa nhận). Mặc dù số lượng tín đồ PG còn quá
ít so với các nước Á châu, tuy nhiên PG ngày nay rất phổ biến ở Đức;
các nhà sách ở các thành phố lớn luôn tràn ngập Kinh sách PG và phong
trào nghiên cứu và tu thiền ngày càng tăng. Dù vậy, PG Đức vẫn còn hạn
chế nhiều mặt, nhất là người lãnh đạo tinh thần và trực tiếp hướng
dẫn tu học. Nếu ở phương Đông, các Tăng sĩ làm công tác truyền giáo dẫn
dắt người tại gia tu học; thì ở Đức, người cư sĩ phải đảm nhận
trọng trách ấy. Tuy nhiên, mọi tín đồ PG Đức rất vui mừng, vì hiện
nay, đất nước của họ rất nhiều giống dân khác nhau đến định cư và
nước Đức đã trở nên một quốc gia "đa tôn giáo". Dù Ky Tô
giáo và Hồi giáo là hai tôn giáo chính ở xứ sở này, nhưng số lượng tín
đồ PG vẫn đang gia tăng. Vì thế, chúng ta có quyền hy vọng rằng "vườn
hoa Phật Giáo" sẽ nở rộ trong một tương lai gần.
Tổng hợp từ các tài liệu
:
- Maha Bodhi Magazine, India, 10/1974
- Buddhism in The Modern World, New York, 1976
- The Awakening of The West, California, 1994
- Martin Petrich & H. Nicole , German Buddhist Newsletters, tháng 8/1995
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nuoc/006-duc.htm
|
|