Ba Tư (Persia) là tên cũ của Iran ngày
nay (chính thức đổi thành Iran vào năm 1935), một quốc gia nằm ở Tây Nam
Châu Á thuộc vùng Trung Cận Đông, phía bắc giáp giới với Liên Xô (cũ),
đông giáp ranh với Pakistan và Afghanistan, nam giáp với Vịnh Ba Tư và Tây
giáp với Thổ Nhĩ Kỳ và Irag. Thủ đô Teheran. Diện tích: 1.648.000 km2 .
Dân số: 54.710.000 người (thống kê năm 1997). Hiện tại Hồi giáo là quốc
giáo tại Ba Tư, nhưng Phật Giáo (PG) vẫn được xem là một tôn giáo có mặt
ở Ba Tư vào đầu thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch. Đây là một điều rất
lý thú cho những nhà sử học và khảo cổ học PG có dịp để phăng tìm
lại con đường truyền bá Chánh Pháp của các bậc tiền bối năm xưa tại
xứ sở này.
Trong thế kỷ qua, các nhà nghiên cứu Ba Tư cho biết rằng
có một số chuyện tiền thân Đức Phật (Jataka stories) từng được biết
đến ở Ba Tư dưới nhan đề là Pancatantra, được chuyển dịch sang tiếng
Ba Tư vào thế kỷ thứ 6 theo chiếu chỉ của vua Khusru, và được dịch
sang tiếng Á Rập và tiếng Xy-ri vào thế kỷ thứ 8, dưới tựa đề là
Kalilag va Damnag. Bản dịch tiếng Ba Tư này về sau lại được chuyển ngữ
sang tiếng Hy Lạp, La Mã và Do Thái. Đến thế kỷ thứ 8, quyển sách Cuộc
đời của Đức Phật (The Life of Lord Buddha) được ông John dịch sang tiếng
Hy Lạp, tác phẩm rất được phổ biến ở các nước Trung Đông thời bấy
giờ. Theo ông Rashid al-Dìn, một nhà sử học sống vào thế kỷ thứ 13,
ghi nhận rằng có ít nhất mười một bộ Kinh Phật được chuyển ngữ và
lưu hành rộng khắp trên đất nước Ba Tư vào thời đó, trong số này có
Kinh Vô Lượng Thọ (Sukhavati- Vyuha sutra) và Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo
Vương (Karanda-vyuha) được ghi nhận còn hiện hữu cho tới ngày nay. Gần
đây , người ta còn tìm thấy thêm một số Kinh như Tương Ưng Bộ Kinh
(Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) và Thọ Ký Di Lặc Kinh (
MaitreyaVyakarana).
Mặc dù nền văn hóa của Ba Tư và Á Rập được xem là
có ảnh hưởng qua một số mẫu chuyện tiền thân của Đức Phật, nhưng
cho đến nay vẫn chưa tìm thấy một bản dịch tiếng Ba Tư, Á Rập hay
ngôn ngữ Trung Đông nào khác. Sự ảnh hưởng của PG trên nền văn học
Ba Tư mà hiện tại chúng ta thấy qua những tác phẩm của những nhà sử học,
địa lý học và đặc biệt là nhân chủng học chỉ là những từ ngữ PG
như al Budd (Đức Phật), al Budasf (Bồ tát), v.v... Trong văn chương của Ba
Tư, đặc biệt ở phía Đông Ba Tư, thường miêu tả những hình ảnh và
biến cố của PG từ những ngôi chùa ở vùng Merv và Balkh. Về kiến thức
nghi lễ của PG có liên hệ vớiù một bảo tháp ở Balkh được thuật lại
bởi nhà sử học Ba Tư Ibn al-Faqih vào thế kỷ thứ 10 và sử gia người
Sy-ri, ông Yaqut, vào thế kỷ 13. Về mặt hiểu biết PG của người Ba Tư còn
rất thô thiển và hạn chế, vì nó phải lệ thuộc vào sự thịnh suy của
PG tại các nước Trung Á và Afghanistan, mặt khác, sự tàn lụi của PG tại
Ấn Độ theo sau cuộc tấn công khốc liệt của đội quân Hồi giáo, cũng
ảnh hưởng đến sự phát triển PG của các quốc gia lân cận.
Phật giáo tại Ba Tư được ghi nhận là phát triển và phổ
biến trong hai thời kỳ, thứ nhất là đầu thế kỷ thứ 3 kéo dài đến
thế kỷ thứ 7 khi gặp sự tấn công của phong trào Hồi Giáo; thứ hai, PG
lại một lần nữa được phục hưng bởi sự chinh phục Ba Tư của người
Mông Cổ vào đầu thế kỷ thứ 13.
Về con đường truyền bá PG vào Ba Tư có thể là gắn liền
với hai hướng như sau: Thứ nhất, con đường truyền giáo được khởi
xướng vào triều đại của vua A-Dục. Sử liệu ghi nhận rằng nhiều
tăng sĩ đã được phái đến truyền pháp tại thành phố Bactria và
Gandhara thuộc Afghanistan, nhờ vậy mà PG đã phát triển tại xứ sở này
và cuối cùng tràn qua Khurasan, (một thành phố nằm về phía Đông Bắc của
nước Ba Tư ngày nay). Thứ hai, PG được truyền vào Ba Tư qua ngã đường
tơ lụa (silk route), con đường này nối liền Đông Tây, xuất phát từ
vùng Đông và Tây Ấn, do các nhà buôn người Ấn khai phá để nối kết với
các quốc gia có mối liên hệ về thương mại. Các nhánh mà con đường
tơ lụa đi qua là Batria và Gandhara để đi tới vùng Địa Trung Hải và
các nhà buôn PG đã có cơ hội để gieo rắc hạt giống Bồ Đề vào các
nơi này. Sử liệu cũng ghi nhận rằng vào đầu thế kỷ thứ II trước
TL, các nhà buôn Ấn thường dừng chân tại vịnh Ba Tư và Á Rập, điều
này giải thích tại sao các địa danh trong vùng này mang dấu vết của
ngôn ngữ Ấn, như but hay hind (Ấn Độ) và bahàr, chữ Sanskrit là vihàra
(tu viện PG).
Mặc dù đạo Thờ Lửa ( Zoroastrianism) là một đạo có ưu
thế tại Ba Tư, nhưng PG vẫn được truyền nhập và phổ biến, điều này
được chứng minh bởi tiền đồng PG của Peroz, con trai của vua Ardahir I
(226-41 sau TL), một người theo đạo Phật và đạo Thờ Lửa. Tuy nhiên,
vào thế kỷ thứ ba cũng có một vài chứng cứ về việc PG gặp phải sự
khán cự của nhà cầm quyền. Ông Kartir, một vị tu sĩ uy tín của đạo
Thờ Lửa, ghi lại trên bia đá rằng PG và một số tôn giáo khác tại vương
quốc Sassanian đã bị đàn áp. Al-Bìrùnì, một sử gia Ba Tư ở vào thế kỷ
11, cũng khẳng định rằng PG đã bi áp lực trong thời kỳ này trước lúc
Đạo Hồi (một tôn giáo lớn do nhà tiên tri Muhammad (570-632) sáng lập tại
nước Á Rập vào thế kỷ thứ 7 trước TL) truyền đến Ba Tư.
Bằng chứng cụ thể về sự tồn tại của PG tại Ba Tư
ngày nay rất mỏng manh, hầu như không còn gì cả. Các hang đá nhân tạo rất
công phu ở Chehelkhaneh và Haidari gần vịnh Ba Tư được xem như là những
tu viện PG, được tạo dựng theo kiến trúc của Ấn Độ và Trung Á. Rủi
thay, không có một bằng chứng rõ ràng nào còn tồn tại để xác minh sử
liệu này. Truyền thuyết của Ba Tư kể rằng, trong hai thế kỷ thứ 8 và
9, tại Ba Tư có một hoàng tộc theo PG rất hùng mạnh mang tên là Barmakid
ở thủ phủ Balkh. Nhiều tác giả người Á Rập cũng thừa nhận điều này
như là một đề tài truyền khẩu. Hoàng tộc này đã xây dựng và trông
nom nhiều Tu viện PG Nawbahàr nằm rải rác ở đông bắc Ba Tư. Không may
thay, Hoàng tộc này đã bị sụp đổ theo sau cuộc thương thuyết bất thành
với triều đình Abbasid đặt tại Baghdad. Sau đó, dường như hệ thống tu
viện Nawbahàr đã bị tịch thu trước thời điểm Hồi giáo xâm lăng đến
vùng này, vì khi người Hồi giáo đến thì hình bóng của PG không còn thấy
ở đó nữa. Tiếp theo đó, những ngôi Tu viện PG Nawbahàr được chuyển
sang làm thánh đường của Hồi giáo.
Thời kỳ PG được xem là phát triển tại Ba Tư là vào đầu
thế kỷ thứ 13 khi Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, 1162-1227) xâm lăng đất
nước này vào năm 1218. Vị vua Mông Cổ này và các quần thần của ông đều
là Phật tử, nên các vị là những nhà bảo hộ cho PG tại Ba Tư cho đến
khi vua Ghazan Khàn đổi theo Đạo Hồi vào năm 1295 . Trong thời gian còn ủng
hộ PG, các vua Mông Cổ đã có những dự án xây dựng chùa chiền một
cách rất quy mô tại vương quốc Maragheh, (nằm phía đông bắc Ba Tư) và
nhiều nơi khác, nhưng kế hoạch này đã bị bãi bỏ theo lệnh của vua
Ghazan, tiếp đó những ngôi chùa đã bị phá hủy hoặc chuyển qua làm
Thánh đường Hồi giáo. Rất có thể những bằng chứng trong thời kỳ
này có hai hang động nhân tạo ở Chehelkhaneh và Haidari, cả hai nơi đều
ở gần cố đô Mông Cổ Maragheh. Cả hai hang động rất nổi tiếng này đã
được các họa sĩ vẽ lại bằng tranh màu nước để trang trí trong những
thánh đường Hồi giáo. Những nỗ lực sau này của vua Mông Cổ Uldjaitu
(1305-16) bỏ Đạo Hồi và trở về với Đạo Phật để phục hưng lại PG
ở Ba Tư, nhưng tiếc thay, PG đã biến mất tại xứ sở này vào hậu bán
thế kỷ thứ 14.
Ngày nay, hình ảnh của Phật giáo tại Ba Tư, còn chăng chỉ
là những lá cờ được trang hoàng trên những ngôi tháp ở tại thành phố
Caucasus, mà người ta tin rằng nó có thể là những ảnh hưởng còn xót lại
của người Mông Cổ trên xứ sở Trung Đông này./.