...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Phật
Giáo tại Nhật Bản
Thích Nguyên Tạng
Nhật Bản (Japan) một quốc gia nằm
phía đông châu Á. Diện tích 377.688 km2. Dân số 123.460.000 người. Mật độ
dân cư: 331,7 người/km2. Dân số dưới 15 tuổi: 18,5%. Tuổi thọ trung bình:
78,5 tuổi. Trình độ văn hóa cấp ba: 30,1%. Thể chế chính trị: Quân chủ
đại nghị (Constitutional Monarchy). Nguyên thủ quốc gia: Vua Akihito. Ngôn ngữ
chính: tiếng Nhật. Đơn vị tiền tệ: đồng yen. Thu nhập bình quân đầu
người: 15.260 đô la.
Phật giáo (PG) và Thần Đạo (Shinto) là hai tôn giáo chính
ở Nhật. Những tôn giáo nhỏ khác là Ky Tô giáo, Tin Lành giáo và Chính Thống
giáo.
Phật giáo Nhật, thời kỳ hình thành ( 538-794):
Theo biên niên sử của Nhật Bản, PG chính thức được truyền đến Nhật
từ Triều Tiên (Korea) vào năm 552 Tây lịch (có chỗ ghi nhận là năm 538).
Lúc bấy giờ vua nước Bách Tế (Triều Tiên) đã gởi một phái đoàn truyền
giáo đến Nhật. Phái đoàn này đã được nhà vua Nhật Bản tiếp đón một
cách nồng hậu và phái đoàn đã dâng lên cho đức vua một tượng Phật bằng
vàng, một vài quyển Kinh, cờ lộng, chuông, mõ…
Tuy nhiên, PG chỉ thực sự cắm rễ và lan tỏa tại Nhật
là trong thời kỳ nhiếp chánh của Hoàng Thái Hậu Suiko. Người kế vị của
bà, Thánh Đức Thái Tử (Shotoku, 574-622) được xem là sơ tổ (First Real
Founder) của PGNB . Thánh Đức Thái Tử vâng lời mẫu hậu Suiko đã cất
công nghiên cứu và tuyên giảng ba bộ Kinh Đại Thừa cho dân chúng Nhật,
về sau những bài giảng này được viết thành một bộ luận rất giá trị.
Sau khi lên ngôi Thái tử Shotoku đã ban hành ngay một chiếu chỉ rằng :
''Toàn dân Nhật Bản phải kính ngưỡng và thọ trì Phật Pháp''. Ông đã
cho xây chùa chiền trên khắp đất nước. Một trong những ngôi chùa nổi
tiếng thời ấy, nay vẫn còn là Chùa Pháp Long (Horyji). Chùa này do chính
Thái tử Shotoku đứng ra xây dựng vào năm 607 và được xem là ngôi chùa gỗ
có tuổi thọ lâu nhất trên thế giới.
Phật giáo Nhật, thời kỳ phát triển (Heian/Bình An/
794-1184)
Trong triều đại Nại Lương (Nara, 710-194) qua sự ủng hộ Phật Pháp của
Hoàng đế Thánh Võ (Shomu, 701-756, vị vua thứ bốn mươi lăm của Nhật) PG
đã trở thành quốc giáo (State religion) của xứ sở này. Năm 741, vua Thánh
Võ đã ban hành một quốc lệnh rằng mỗi làng và mỗi tỉnh phải xây dựng
một ngôi chùa và dân chúng phải thành tâm thọ trì Phật Pháp. Để làm gương
cho mọi người, chính vua Thánh Võ đã đích thân xây chùa Đông Đại
(Todai) tại kinh đô vào cuối năm 741, đây là ngôi tổ đình của tông
phái Hoa Nghiêm với pho tượng Phật Tỳ Lô Xá Na (Vairocana) khổng lồ được
tôn thờ bên trong chánh điện. Cũng trong thời kỳ Nara này, có sáu tông
phái PG được truyền đến Nhật từ Trung Hoa và phong trào nghiên cứu và
tu Phật tại Nhật đã bắt đầu.
Sáu Tông phái PG đến từ Trung Hoa trong thời đại Nại
Lương (Nara, 710-194) :
1. Luật Tông (Ritsu): là một trong mười ba Tông Phái PG (TPPG) chính của
Trung Hoa. Tông này theo khuynh hướng bảo thủ giống như truyền thống ở các
nước ở Nam Á, được ngài Đạo Tuyên (Tao-hsuan, 596-667) dựa vào bộ Đại
Thừa Luật (Mahayana Vinaya) mà thành lập vào thời đại nhà Đường. Chủ
trương của tông là nghiêm trì giới luật để tiến đến Phật qu?. Tông
này được ngài Giám Chân (Ganjin) giới thiệu đến Nhật vào năm 754.
2. Câu Xá Tông (Kusha): Cũng
là một tông phái bảo thủ, lấy Luận A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma) làm chỗ nương
tựa chính. Đó là một bộ luận nổi tiếng của ngài Thế Thân
(Vasubandu).
3. Thành Thật Tông (Jojitsu): Tông này dựa vào giáo lý tánh không (non-substantiality) của Luận
Thành Thật (Satyasiddhi) mà thành lập.
4. Tam Luận Tông (Sanron):
phát xuất từ phái Trung Quán ở Ấn Độ, một trường phái phát triển của
Đại sư Long Thọ (Nararjuna). Giáo lý tông này cũng nhấn mạnh đến tự tánh
không của vạn pháp. Như tên gọi của tông này, Tam Luận, tức là dựa
vào ba bộ luận chính, Trung Quán Luận (Madhyamika), Dvadasamuka Sastra của
Ngài Long Thọ, và Sala của Ngài Aryadeva.
5. Pháp Tướng Tông (Hosso): bắt nguồn từ trường phái Yoga của Ấn Độ, một PGPG phát triển
có mặt từ năm 167 TL tại Ấn.
6. Tướng Tông (Hosso): bắt
nguồn từ trường phái Yoga của Ấn Độ, một PGPG phát triển có mặt từ
năm 167 TL tại Ấn.
7. Hoa Nghiêm Tông (Kegon): dựa
vào Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) để lập tông. Chủ trương của phái tôn thờ
và thực hành pháp hạnh của đức Phật Tỳ Lô Xá Na.
Tất cả sáu tông phái trên đều có nhiều hành giả, học giả theo đuổi
học hỏi và hành trì, nhưng tầm ảnh hưởng của nó chỉ giới hạn trong
giới xuất gia mà không mở rộng ra bên ngoài.
Phật giáo Nhật, thời kỳ Kiếm Thương (Kamakura1185-1333)
Đây là thời kỳ khủng hoảng, vì cả nước bị đe dọa trầm trọng bởi
tàn phá khốc liệt từ sự phân hóa nội bộ và bạo lực dưới những tổ
chức quân sự được thành lập năm 1185 của bộ tộc Minamoto, ngoại ô
Kyoto. Bầu không khí mới này đã làm cho việc tu tập và nghiên cứu Phật
Đà bị khựng lại một lúc lâu. Tuy nhiên, cuối cùng mọi việc cũng đâu
vào đấy và PG vẫn tiếp tục công việc của mình.
Nếu trong triều đại Bình An (Heian, 794-1185) hai tông phái
khác được vào Nhật Bản là Thiên Thai Tông (Tendai) và Chân Ngôn Tông
(Shingon). Hai tông phái này có một hệ thống giáo lý sâu nhiệm và độc
đáo, lập tức chinh phục và được ủng hộ một cách nhiệt thành của
quần chúng Nhật, nhất là tầng lớp quý tộc, thì đầu triều đại Kiếm
Thương (Kamukura, 1185-1333), hai phái khác, Nhật Liên Tông (Nichiren) và Tịnh
Độ Tông (Jodo) cũng lần lượt xuất hiện và được truyền bá rộng rãi
trên toàn nước Nhật.
Như vậy, cho đến thế kỷ mười ba, tất cả những tông
phái (sect/shù/tsung) chính đều có mặt tại Nhật, bao gồm Thiền Tông, Tịnh
Độ Tông, Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Nhật Liên Tông…
* Thiền Tông (Zen Sect): là
một tông phái đặc biệt của PG Nhật. Thiền bắt nguồn từ thời Phật
Thích Ca, rồi được Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma, con của vua Chí Cương,
thuộc dòng Sát Đế Lợi, nước Quốc Hương, Nam Thiên Trúc, vùng Cao
nguyên Dekkan, miền Nam Ấn Độ. Ngài là Tổ sư thiền tông đời thứ 28 của
Ấn Độ). Năm 480 vâng lời Thầy, Ngài đến Trung Hoa để truyền bá pháp
môn thiền. Ở Trung Hoa lúc đầu thiền bị ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo
Lão và Khổng. Thiền chỉ độc lập và nổi tiếng từ thế kỷ thứ bảy
và đã trở thành một tông phái chính cho tới ngày nay tại Trung Hoa.
Thiền được giới thiệu đến Nhật vào khoảng thế kỷ
thứ 9 từ Trung Hoa qua hai Thiền phái Lâm tế và Tào Động, cả hai phái
này đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng cửa Lục Tổ Huệ Năng ở thế
kỷ thứ 8. Hiện nay ở Nhật có ba Thiền phái như sau :
* Thiền Lâm Tế (Rinzai Sect): do công khai sáng của thiền sư người Nhật Vinh Tây (Eisai,
1141-1215). Ngài xuất gia từ năm mười ba tuổi ở chùa An Dưỡng (Annyo) ở
Kibitsu. Ngài đã tìm đường đến Trung Hoa để học đạo trong hai lần, vào
những năm 1168 và 1187. Lần sau cùng Ngài về đến Nhật vào năm 1191 và
thành lập chùa Shofuku ở Hakata. Ngôi chùa này được xem là thiền viện đầu
tiên trên đất nước này. Năm 1215, triều đình Nhật xây dựng Chùa Kiến
Nhân (Kennin-ji) tại Kyoto, Ngài được thỉnh về làm chứng minh đạo sư
cho ngôi già lam này. Ngài cũng được xem là người có công trong văn hóa uống
trà của Nhật, Ngài đã mang giống trà từ Trung Hoa về trồng ở Nhật. Vị
thiền sư nổi tiếng của Thiền phái này về sau là ngài Bạch Ẩn (Hakui
Ekaku, 1685-1786) với những tác phẩm để đời. Ngày nay ở Nhật có 14 chi
phái thuộc dòng Thiền này, tuy không hợp nhất về tổ chức, nhưng vẫn
theo đuổi lý tưởng ban đầu của tổ sư Vinh Tây.
* Thiền Tào Động (Soto/Tsao-tung): là một trong năm Thiền phái chính của Trung Hoa và là một
trong mười ba Tông phái chính của PGNB. Đây là một Thiền phái kiểu mẫu
như để so sánh với Thiền Lâm Tế, cuối cùng nó dường như phổ biến
hơn những Thiền phái khác ở Nhật. Nếu Lâm tế thích ứng với giới thượng
lưu trí thức, thì Tào Động lại gần gũi với tầng lớp bình dân. Thiền
Tào Động được Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen, 1200-1253) khai sáng. Đạo
Nguyên vốn là đệ tử của Ngài Vinh Tây, sau đó ông sang Trung Hoa du học
và trở về Nhật Bản xây dựng Thiền phái này. Người kế thừa và làm
lớn mạnh dòng thiền này là thiền sư Suzuki Shosan (1579-1653). Hiện nay ngôi
già lam chính của Thiền phái này là Chùa Tổng Trì (Soji-ji) ở Yokohama do
thiền sư Hành Cơ (Gyogi, 666-749) tạo dựng năm 1321.
* Thiền Hoàng Bá (Obaku sect): đây là Thiền phái thứ ba của người Nhật, có tầm ảnh hưởng
ít hơn hai Thiền phái trên, do thiền sư người Trung Hoa Ẩn Nguyên
(Yin-Yuan, 1592-1673) khai sáng. Sau nhiều năm tu học tại quê nhà, ông đến
Nhật Bản để hoằng Pháp vào năm 1654 và tiến hành thành lập Thiền
phái này tại chùa Vạn Phước (Mampuku-ji) ở tỉnh Yamato. Ông đã được
vua Nhật ban cho danh hiệu là Quốc sư (Daiko-Fusho-Kokushi), ông đã để lại
nhiều tác phẩm có giá trị. Hiện tại có hơn 600 ngôi chùa là chi nhánh của
Thiền phái này.
Nhìn chung cả ba Thiền phái trên đã phát triển mạnh ở
Nhật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của người dân Nhật.
Cả ba đều có nhiều trường đại học, nhà xuất bản kinh sách riêng, cơ
quan từ thiện... Không những thế Thiền đã ăn sâu vào tiềm thức của
người Nhật, thiền đã đi vào hoa, vào trà, vào nếp sống, nếp nghĩ của
người dân và cuối cùng nó nâng lên thành Đạo, trà đạo, hoa đạo... Bản
chất khiêm hạ mà 蠳ắc
bén, từ ái mà quật cường của người Nhật được cả thế giới ngưỡng
mộ đều là kết quả từ sự thực nghiệm Thiền định cả.
* Tịnh Độ Tông (Jodo/Pureland Sect): đây là một tông phái rất phổ biến ở các quốc gia
Bắc phương PG, có nguồn gốc từ thế kỷ thứ hai Tây lịch tại Ấn Độ.
Tông này dựa vào giáo lý của Kinh Vô Lượng Thọ (Sukhavativyuha) và Kinh A
Di Đà ( Amitabha-sutra). Cả hai bộ Kinh này đều mô tả về một cõi giới
ở phía Tây, nơi những hành giả tu tập theo tông này sẽ tái sinh sau khi bỏ
báo thân ở cõi Ta Bà như là một kết quả từ niềm tín tâm nơi Đức Phật
Di Đà và tu tập nhiều thiện nghiệp. Vị Tông chủ của phái này là Đức
Phật A Di Đà hay Đức Phật có ánh sáng vô lượng (unlimited light Buddha). Tịnh
Độ Tông được truyền đến Nhật Bản vào khoảng thế kỷ thứ sáu với
sự thiết lập của Ngài Pháp Nhiên (Honen, 1133-1212). Ngài Pháp Nhiên đã
công khai hóa pháp môn Tịnh độ vào năm 1175 ở Kyoto. Sau đó nó đã phát
triển mạnh mẽ và nhanh chóng thích nghi với xã hội Nhật, kết quả là
có năm chi phái Tịnh Độ xuất hiện từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ
thứ 13, bao gồm Dung Thông Niệm Phật Tông (Yùzù-nembutsu) do Ngài Lương Nhẫn
(Ryonin, 1073-1132) thành lập; Ngài Thân Loan (Shinran, 1173-1263) với Tịnh Độ
Chân Tông (Jòdo Shin); Ngài Nhất Biến (Ippen, 1239-1289) với Thời Tông (Ji
sect)... Ngày nay, ở Nhật chỉ còn hai trong năm chi phái trên còn thịnh
hành. Những ngôi chùa chính của tông phái này là chùa Chion ở Kyoto và
Chùa Zojo ở Tokyo. Vào năm 1993, các tông phái Tịnh Độ này đã kết hợp
để xây dựng một pho tượng A Di Đà cao 120m (xem bài về pho tượng này
trên cùng trang Web), đây là một trong công trình Phật sự vĩ đại của Phật
giáo tại Nhật ở cuối thế kỷ hai mươi này.
* Thiên Thai Tông (Tendai-shù): còn được gọi là Pháp Hoa Tông, được Ngài Trí Khải (Chih-i,
538-597, thường được gọi là Thiên Thai Đại Sư) dựa vào giáo lý Pháp
Hoa Kinh mà lập tông tại núi Thiên Thai. Trí Khải Đại sư là tác giả của
trên ba mươi luận bản nổi tiếng như Pháp Hoa Huyền Nghĩa (Fa-hua
hsuan-tsan), Pháp Hoa Văn Cú (Fa-hua Wen Chu), Ma Ha Chỉ Quán (Mo-ho-chih-kuan)...
Tông này được Ngài Tối Trừng (Saicho, 767-822), truyền đến Nhật năm
805. Ngài Tối Trừng sinh năm 767 tại Omi (Nhật Bản), xuất gia năm 12 tuổi.
Năm 804, Ngài được triều đình Nhật gởi sang Trung Hoa để học Phật. Ngài
đã tận dụng cơ hội này để học giáo nghĩa Thiên Thai dưới sự dẫn dắt
của Dòsui, học thiền với Hsiao-jan... một năm sau Ngài hồi hương và tiến
hành lập tông này. Ngài viên tịch năm 822 ở tuổi 56, để lại phía sau
mình một công trình nghiên cứu đồ sộ với một trăm sáu mươi tác phẩm
các loại.
* Nhật Liên Tông (Nichiren-shù): còn được gọi là Pháp Hoa Tông (Hokke-Sect); hay Nhật Liên Pháp Hoa
Tông (Nichiren Hokke) được Ngài Nhật Liên (Nichiren, 1222-1282) thành lập.
Tông này lấy tư tưởng Kinh Pháp Hoa làm chỗ nương tựa chính. Ngài Nhật
Liên sinh năm 1221, con của một gia đình lao động ở Kaminato. Ngài xuất
gia vào thuở thiếu thời. Lúc đầu học theo Chân Ngôn Tông, rồi Thiên
Thai Tông. Cuối cùng Ngài kết luận rằng chỉ Kinh Pháp Hoa
(Saddharmapundarika-Sutra/The Lotus of the Good Law) mới là cứu cánh và đưa đất
nước Nhật bản ra khỏi cảnh khốn cùng. Hành giả theo tông này thường
thọ trì Kinh Pháp Hoa và niệm danh hiệu Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Tông này có bốn ngôi chùa chính là chùa Bản Môn (Hommon-ji) xây dựng ở
Tokyo năm 1291; chùa Diệu Hiển (Myòken-ji) xây dựng năm 1326 và chùa Bản Quốc
(Honkoku-ji) xây dựng năm 1263 ở Kamakura, đến năm 1345 thì được dời về
Kyoto và chùa Pháp Hoa Kinh (Hokekyò-ji) xây dựng năm 1260 ở Nakayama. Sau thế
chiến thứ nhất, Tông này đã phát triển thêm nhiều tổ chức như Soka
Gakkai, Rissho Koseikai, Reiyukai... đều một lòng xiển dương giáo nghĩa của
Pháp Hoa Kinh. Riêng tổ chức PG Rissho Koseikai được đạo hữu Nikkyo Niwano
thành lập vào tháng 3 năm 1938, đến nay vẫn được xem là một trong những
tổ chức PG rất mạnh tại Nhật với hơn 6 triệu hội viên trên khắp thế
giới. Năm 1997, Hội này có mở một trang nhà để phổ biến giáo lý rất
phong phú, địa chỉ vào xem là: http://www.mediagalxy.co.jp/kosei/index1.html.
* Chân Ngôn Tông (Shingon Sect): còn gọi là Mật Tông (Esoteric Sect) là một trong những TPPG chính
ở Nhật, được Hoằng Pháp Đại Sư (Kobo Daishi, 774-835) thành lập ở Nhật
vào năm 806. Ngài vốn có tên là Không Hải, sinh năm 774, năm 15 tuổi đến
Nara để học chữ Hán, lịch sử, văn học và Kinh điển PG. Sau khi so sánh
Phật, Lão và Khổng, ông chọn Phật để theo. Ông xuất gia năm 20 tuổi với
Đại sư Gònso. Năm 22 tuổi ông thọ cụ túc giới ở chùa Đông Đại.
Năm 31 tuổi (804) ông được Thầy gởi đi Trung Hoa để học với sư
Hui-Kuo (746-805). Năm 806 Ngài trở về Nhật và tu ở núi Mahinoo, trong thời
gian này có rất nhiều người tới để cầu học, trong đó có cả Ngài Tối
Trừng. Năm 816 Ngài khởi công xây dựng chùa Kim Cương (Kongò-ji) tại núi
Koya thuộc tỉnh lỵ Wakayama để hoằng dương pháp tu này. Vị tông chủ của
giáo phái này là Đức Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana/Dainichi-nyorai), hành
giả của giáo phái tu theo lời dạy trong bộ Đại Nhật Kinh Sớ
(Dainichi-Kyò-sho). Hiện nay Chân Ngôn Tông vẫn phát triển đều đặn và
có sáu chi phái nhỏ khác nhau tồn tại ở Nhật.
Phật Giáo Nhật Bản ngày nay:
Theo thống kê gần đây cho thấy có khoảng 70% dân số là tín đồ Phật
giáo. PGNB được chia thành mười ba tông phái chính, có 80.000 ngôi chùa,
200.000 tăng sĩ. Có trên 20 đại học, trung học và viện nghiên cứu PG ở
khắp đất nước Nhật. PG tu học vẫn được duy trì mạnh mẽ nhưng có
ý kiến phê bình rằng ngày nay PG chỉ còn ảnh hưởng trên mặt tri thức
hơn là đi sâu vào mặt thực hành như thuở nào. Triết thuyết của PG đã
trở nên khó hiểu đối với đại đa số quần chúng và chỉ có số ít
quan tâm đến đời sống tôn giáo. Tăng sĩ tụng niệm nhiều hơn tăng sĩ
thuyết giảng. PG lý tưởng và đời sống tâm linh dường như đang trên đà
lãng quên, cho dù kinh sách PG vẫn ấn hành đều đặn và nhiều hơn trước.
Tương lai của PG Nhật thật khó mà tiên liệu được. Ngành
khoa học nghiên cứu PG đã có dấu hiệu phát triển trong những năm gần
đây, nhưng nó vẫn còn những khoảng cách nhất định với tầm hiểu biết
của quần chúng Phật tử. Phần lớn những nhà nghiên cứu chỉ chú trọng
vào chiều sâu của triết thuyết và ngôn từ chuyên môn hơn là những ý
nghĩa thật sự của nó đối với đời sống của con người.
Tuy nhiên, có dấu hiệu lạc quan và hy vọng cho sự phục hưng và phát
triển PG tại Nhật vì có nhiều tổ chức PG thành lập, đặc biệt là giới
cư sĩ tại gia, để mở rộng nhiều chương trình hướng dẫn quần chúng
tu học Phật. Nhiều tổ chức tôn giáo xuất hiện sau Thế chiến thứ II
(1945) đều mang theo sự ảnh hưởng sâu đậm của PG. Những hoạt động
truyền giáo bên ngoài Nhật Bản cũng gia tăng đáng kể, nhiều phái đoàn
hoằng pháp liên tục được gởi đi hải ngoại, đặc biệt là bắc Mỹ
và châu Âu. Nhiều sách báo được ấn hành trong nhiều loại ngôn ngữ
khác nhau của phương Tây, các học giả Nhật Bản đã hợp tác với các
nhà nghiên cứu nước ngoài để biên soạn bộ Bách Khoa Từ Điển PG
(Buddhist Encyclopedias, ấn hành vào năm 1980). Toàn bộ Kinh sách của PG Tây Tạng
đã được chuyển ngữ và được xuất bản bởi một Viện Nghiên Cứu tại
Nhật và một bộ sưu tập tất cả những bài nghiên cứu giáo lý Phật Đà
được in từ nhiều quốc gia khác nhau, đã được chuyển ngữ và in tại
Nhật. PG Nhật cũng hỗ trợ cho nhiều học giả và nghiên cứu sinh từ bắc
và nam Mỹ, châu Âu và châu Á, đặc biệt các nước Ấn Độ, Trung Hoa, Tích
Lan, Việt Nam... đến Nhật để học Phật. Rất nhiều tổ chức Từ Thiện
PG được thành lập để giúp người tị nạn và các quốc gia đang phát
triển ở Á châu và Phi châu. Nhìn chung PG Nhật đang chuyển mình để hòa
nhập với trào lưu mới để đem lại ánh sáng và bình yên cho mọi người.
Tổng hợp từ các tài liệu
:
- Masaharu Anesaki (1930) History of Japanese Religion, Kyoto.
- Charles Eliot (1959) Japanese Buddhism, Tokyo.
- Yoshiro Tamura (1990) Tokugawa Period Buddhism and the Path to Modernization, - -
- Dharma World, Sep/Oct 1990.
- Keiichi Yanagaw (1992), Religion in Japan Today, Foreign Press Center,
Tokyo.
- Kodansha (1990) Kodansha Encyclopedia of Japan, Kyoto.
- Kazumasa Osaka (1990-1999), Dharma World magazine, Tokyo.
Chân thành cảm ơn đạo hữu
Kazumasa Osaka (Tổng Biên Tập Tạp chí Dharma World, Japan) và cô Lydia Quảng
Như (Khoa Luật, Đại Học Monash, Australia) đã cung cấp cho chúng tôi nhiều
tài liệu quý báu cho bài viết này.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nuoc/013-nhat.htm
|
|