Thụy Điển (Sweden), một quốc gia
lập hiến nằm trên bán đảo Scandinavie, diện tích 450.000km2, dân số 8,3
triệu người, thủ đô Stockholm. Nền kinh tế chính là công-nông nghiệp
phát triển cao. Các ngành công nghiệp chủ yếu của Thụy Điển là luyện
kim, sản xuất thép có chất lượng, chế tạo máy, dệt, công nghiệp rừng
và công nghiệp phẩm.
Cũng như các quốc gia ở châu Âu khác, Phật giáo được
truyền đến Thụy Điển vào đầu thế kỷ 20 nhờ có phong trào học hỏi
và nghiên cứu tâm linh của Hiệp hội Thông thiên học (Theosophical Society)
của ông Henry Steel Olcott và bà Blavastky ở Hoa Kỳ. Lúc ấy (1910), tại Thụy
Điển có một văn phòng chi nhánh của Hội Thông thiên học, do đó mà người
Thụy Điển mới có cơ hội biết đến Phật giáo. Tiếp đó, kiến thức
về Đức Ph?t và giáo pháp của Ngài được người Thụy Điển biết rộng
rãi là nhờ vào bản dịch tiếnh Thụy Điển quyển "Ánh sáng Á
Châu" (The Light of Asia) của Edwin Arnold (1832-1904), một tác phẩm thi ca nổi
tiếng viết về cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Theo thống kê mới đây của các hội Phật giáo tại Thụy
Điển cho thấy tín đồ Phật giáo tại đất nước này có khoảng 20.000
người, trong khi tín đồ Thiên Chúa giáo chiếm đến 90% dân số trong cả
nước. Lý do đơn giản là vì Thiên Chúa giáo đã có mặt ở đây hơn một
thiên niên kỷ qua, còn Phật giáo chỉ mới bắt đầu từ đầu thế kỷ này.
Người Thụy Điển đầu tiên tự nhận mình là Phật tử
là một nhà hoạt động xã hội, bà Kata Dalstrom, người đã thành lập một
nhóm Phật tử vào năm 1920, để cùng giúp đỡ nhau trong việc tu học và học
tập giáo lý. Tuy nhiên, nhóm này chỉ hoạt động đến năm 1950 thì ngưng.
Tiếp đó, có hai nhóm Phật tử khác hoạt động ở thủ đô Stockholm và
ở thành phố Gothenburgn. Riêng ở Gothenburgn nhóm này hoạt động mạnh hơn
nhờ có ông Marcel Cerutti Sirander, một ngườ Pháp đến lập nghiệp tại Thụy
Điển. Ông đã theo học Phật với một Thiền sư ngưòi Trung Hoa và sau đó
thành lập tổ chức để giúp người Thụy Điển đến với Phật giáo.
Tại thủ đô Stockholm, một tổ chức Phật giáo khác do một
Phật tử người Thụy Điển, bà Amita Nisatta làm chủ tịch. Bà đã theo học
cả truyền thống Phật giáo Theravada lẫn Mahayana. Sau đó bà đã xuất gia
và trở thành nữ tu người Thụy Điển đầu tiên theo Phật giáo Trung Hoa.
Từ năm 1970 trở đi, số lượng Phật tử ở Thụy Điển
dần dần gia tăng và đến nay. Số lượng đó được đúc kết là 20.000
người. Cũn như các quốc gia láng giêng khác, ở Thụy Điển xưa nay vẫn
mong có một tổ chức Phật giáo trung ương để điều hành Phật sự trong
cả nước; nhưng đến nay vẫn chưa thành tựu, vẫn là những tổ chức
riêng lẽ, hoạt động theo ý muốn của mỗi vùng. Tại thủ đô Stockholm,
một tu viện thuộc Phật giáo Tây Tạng được xây dựng năm 1974, tu viện
này đến nay vẫn hoạt động mạnh. Một ngôi chùa khác thuộc Phật giáo
Thái Lan cũng được tạo dựng vào năm 1984, một thiền viện khác của người
Tích Lan được khánh thành năm 1985, cả hai ngôi chùa Theravada này đến nay
vẫn sinh hoạt bình thường và thu hút nhiều người Thụy Điển đến chiêm
ngưỡng và tu học. Ngoài ra trên khắp đất nước Thụy Điển còn có nhiều
nhóm tu thiền khác nhau theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, Trung
Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan ...
Và người Á châu ở Thụy Điển có người Việt và người Nhật. Cả
hai sắc dân này đều có xây dựng chùa riêng và hoạt động Phật pháp
theo truyền thống văn hóa của mình. Người Việt hiện có hai chùa ở Thụy
Điển, họ có tổ chức Gia đình Phật tử, tu Bát quan trai... Còn Phật
giáo Nhật Bản nổi bật có tổ chức Phật giáo Soka Gakkai; trong những năm
gần đây, năm nào họ cũng tổ chức đại lễ Phật Đản ở thủ đô
Stockholm, gây được sự chú ý và ảnh hưởng trong các cộng đồng ở Thụy
Điển. Tóm lại, so với các nước ở châu Âu, Phật giáo Thụy Điển chỉ
mới bắt đầu, Phật giáo Thụy Điển cần có sự đoàn kết và thống nhất
giữa các hội đoàn Phật giáo để có cơ hội giúp đỡ người bản xứ
nhiều hơn trong công cuộc hoằng dương chánh pháp. Người Phật tử Thụy
Điển từng tự hào rằng họ đã có một nhà văn, nhà thơ vĩ đại là
ông Harry Martinson, người đã đoạt giải Nobel về văn chương vào năm 1974
và chính ông đã từng khẳng định : "Tôi viết được như thế, bởi
vì tôi là một Phật tử". Người Thụy Điển ngày nay cũng mong muốn
truyền thống tốt đẹp này ngày càng được phát huy nhiều hơn nữa trên
đất nước của họ.