...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Phật
Giáo tại Nam Triều Tiên
Thích Nguyên Tạng
Nam Triều Tiên (South Korea, Nam Hàn)
là một quốc gia nằm ở đông bắc châu Á. Diện tích: 99.484 Km2 , dân số:
45.182.000 người. Hàn quốc từng trải qua những chế độ độc tài với
những cuộc bạo động xã hội và đàn áp mạnh mẽ. Nhưng tiến trình
dân chủ hóa đã được thiết lập vào năm 1988. Hiện tại Nam Triều Tiên
(NTT) đã trở thành "một nước công nghiệp hóa mới" (còn được
gọi là một trong bốn con rồng châu Á) cùng với Đài loan, Hong Kong và
Singapore. Phật giáo là một trong ba tôn giáo chính ở Hàn quốc (Khổng
giáo và Ki Tô giáo).
Phật giáo được truyền vào TT vào thế kỷ thứ 4 Tây lịch.
Vào thời điểm này, bán đảo Triều Tiên được chia thành ba nước nhỏ
là Cao Ly (Koguryo), Bách Tế (Paekje) và Tần La (Shilla). Phật giáo được giới
thiệu lần tiên ở phía bắc nước Cao Ly (nay là Bắc Triều Tiên), và dần
dần lan đến Bách Tế, miền Tây nam và cuối cùng được truyền đến nước
Tần La, thuộc miền đông nam vào thế kỷ thứ 5.
* Phật giáo Triều Tiên trong thời Tam Quốc:
Nước Cao Ly ( Koguryo): Vào năm 372 Tây lịch, một tăng sĩ được thỉnh cầu
từ Trung Hoa đến nước Cao Ly. Ngài đã mang theo số Kinh và một vài tượng
Phật. Phật giáo đã được vua chúa và dân chúng tiếp nhận rất nhanh.
Nước Bách Tế (Paekje): Phật giáo được truyền vào nước
Bách Tế từ Cao Ly vào năm 384 vào, tại đây vua chúa và quần thần cũng rất
mộ đạo. Vua Asin (392-450), đã khuyên bảo quần thần và nhân dân rằng:
"Nên tin tưởng vào Pháp Phật để mưu tìm hạnh phúc". Trong triều
đại của vua Song ( 523-554), có một tăng sĩ tên là Kyomik, trở về từ Ấn
Độ với nhiều bản kinh mới . Ngài được xem là vị Tổ khai sơn của một
trong những tông phái phật giáo chính tại Triều Tiên. Đầu năm 530, một
số tăng sĩ Triều Tiên đã lên đường đi truyền bá Phật Pháp tại Nhật
Bản. Trong chuyến đi này có một vài kiến trúc sư và họa sĩ tháp tùng.
Nhờ những người này mà những ngôi chùa ở Nhật bản được xây dựng
lên không lâu sau khi họ đặt chân đến Nhật .
Nước Tần La (Shilla): đối với nước Shilla thì Phật
pháp phát triển mộy cách chậm chạp cho đến thời kỳ vua Pháp Hưng
(Pophung, 514-540) thì Phật giáo mới được thừa nhận là quốc giáo (
national religion) của Shilla. Vua Chân Hưng (Chihung, 540-575) đặc biệt khuyến
khích phát triển Đạo Phật. Trong thời gian trị vì, ông đã cho thành lập
Trường Phật Giáo Hwarangdo, tuyển chọn những người trẻ tuổi rồi đào
tạo theo nguyên tắc của Phật giáo để ra phục vụ cho nước nhà. Trong
thời đại của Shilla, những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo có giá trị
đã bắt đầu xuất hiện, chẳng hạn như tượng đá Phật Thích Ca ở
Kyongju và chùa Hwangnyong đã được xây dựng trong thời kỳ này.
* Phật giáo Hàn quốc từ thời thống nhất của Tần La đến
ngày nay:
- Triều đại Tần
La ( 668-935):
Năm 668, Triều đại Tần La đã có công thống nhất đất nước, và PG nhờ
vậy mà cũng được thống nhất. Trong suốt triều đại Shilla PG đã tiếp
tục phát triển cả về mặt học thuật lẫn văn hóa. Trong thời đại này,
nhiều tác phẩm nghệ thuật PG đã xuất hiện, nhiều chùa, tháp, tượng
Phật có tính lịch sử cũng đã được tạo dựng. Kinh Hoa Nghiêm (
Avatamsaka Sutra) và Kinh Pháp Hoa ( Saddharmapundarika Sutra) đã bắt đầu được
nghiên cứu, trong khi Đức Phật Di Đà (the Buddha of Light) và Bồ Tát Quán
Âm (the Bodhisattva of Compassion) được thờ phượng khắp nơi. Đến cuối
triều đại Tần La Thiền Tông đã được giới thiệu từ Trung Hoa, và
chính trường phái này đã giúp cho PGTT lật qua một trang sử mới.
- Triều đại Cao Ly ( 935-1392):
Sau khi triều đại Tần La suy tàn, nhà Cao Ly tiếp nối vào thế kỷ thứ mười.
PG tiếp tục là quốc giáo, nhiều vị vua đã phát tâm xây dựng chùa tháp
và ủng hộ nhiều mặt cho chánh Pháp. Tuy nhiên vào thời điểm này có
quá nhiều sự tập trung vào lễ nghi và điều này đã tạo ra một tình cảnh
không thích hợp cho việc phát triển tâm linh. Trong nỗ lực gạn lọc và
tái tạo lãnh vực tu tập tâm linh, nhiều tăng sĩ đã chống lại khuynh hướng
lễ nghi này. Một trong ba thiền sư là ngài Nghĩa Định (Ui- chon, 1055-1101),
con trai của vua Minh Tôn (Munjong, 1047-1083), người đã mang về cho Triều
Tiên 4000 Kinh sách các loại khi ngài còn du học ở Trung Hoa, từ những bộ
kinh này mà bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên (Tripitaka Koreana) đã được thành
lập vào thế kỷ thứ 11, đây là một trong những thành công rực rỡ của
PG dưới triều đại của Koryo. Thiền sư Nghĩa Định cũng được xem là
người có công mang hạt giống thiền của tông Thiên Thai về cho TT và thiền
phái mới này đã tạo ra một không khí mới cho PG Triều Tiên thời bấy
giờ.
Thiền sư Tri Nột (Chi-nul, 1158 - 1210), đã trở thành người
lãnh đạo cho PG TT. Ngài đã khai sơn chùa Songgwang trên núi Tào Khê
(Chogye), đây là một ngôi tổ đình của tông phái thiền hơn 300 năm. Chín
tông phái thiền đã được thiền sư Thái Cổ (Tae-go, 1301 - 1382) thống nhất
với tên gọi là thiền phái Tào Khê (Chogye), một tông phái chính của PG
TT vẫn còn duy trì cho tới ngày hôm nay.
PG vẫn duy trì và ảnh hưởng mạnh mẽ trong giới trí thức
vào cuối triều đại Cao Ly. Khổng giáo được truyền đến bán đảo Triều
Tiên cùng thời với PG nhưng không đạt được kết quả như vậy.
- Triều đại Triều Tiên (Choson , 1392-1910):
Với sự suy sụp của triều đại Cao Ly vào năm 1392, PG cũng theo đó mà
đi xuống khi những vị vua của tân triều đại Triều Tiên theo Khổng
giáo. Trong thời kỳ này nhiều tăng sĩ PG đã tham gia vào chính quyền. Các
vua của triều đại này từng có những chiến lược đàn áp PG một cách
thẳng tay. Chùa chiền không được xây dựng gần thành phố mà phải xây
ở núi rừng, nhiều ngôi chùa đã bị phá hủy, tăng sĩ bị coi rẽ và
không được phép đặt chân đến thành phố. Tuy nhiên cũng có một vài vị
vua trong triều đại này đã bảo hộ PG và dân chúng vẫn giữ niềm tin đối
với Chánh Pháp.
Đến cuối thế kỷ 16, trong khoảng thời gian Nhật Bản xâm
lược Triều Tiên, PG đã trở lại cứu đất nước. Ở tuổi 72, thiền
sư Tây Sơn (So- san 1520 -1604) và người đệ tử là Tứ Minh Đường
(Sa-myong 1544-1610) cùng với 5000 tăng binh ( Buddhist monk soldiers) ra chiến trường.
Theo sau cuộc chiến bại của Nhật Bản, thiền sư Tứ Minh Đường đã dẫn
đầu một phái đoàn tới Nhật Bản vào năm 1604 và ngài đã hoàn tất sứ
mạng của mình với một bản hiệp ước hòa bình giữa Nhật và Triều
Tiên.
- Từ 1910 - đến nay:
Vào năm 1910 triều đại Triều Tiên đã tàn lụi với sự thôn tính của
đế quốc Nhật Bản. Trong thời kỳ thuộc địa, PG đã được thừa nhận
và ủng hộ bởi chính quyền Nhật Bản. Tuy nhiên, các tông phái PG bản xứ
không được phát triển và tăng sĩ được khuyến khích lấy vợ. Vị trù
trì của mỗại chùa phải được bổ nhiệm từ chính quyền. Trong thời kỳ
này, nhiều tác phẩm nghệ thuật PG đã bị mang về Nhật Bản. Gần đây,
chính quyền TT đã có những cuộc thương thuyết với phía Nhật Bản để
đòi lại những bảo vật của PGTT.
Sau cuộc cách mạng 1945, tăng sĩ thanh tịnh của thiền phái
Tào Khê đã thay thế cho những tăng sĩ có gia đình để trù trì những
ngôi chùa từng bị Nhật Bản chiếm đóng. Trong bốn thập niên qua, nhiều
chùa chiền đã được xây dựng trở lại trong thành phố. Có rất nhiều
chương trình tu học cho mọi giới trong xã hội. Một nửa dân số TT là Phật
Tử. Một số lượng lớn nam nữ Phật Tử TT đã xuất gia và PGTT đã được
phục hưng rất nhanh.
- Về các Tông Phái Phật giáo tại Triều Tiên:
Hiện tại ở TT có tất cả là 18 tông phái PG khác nhau xuất phát từ bốn
tông phái chính là Thiền tông, Mật tông, Pháp Hoa tông và Hoa Nghiêm tông.
Tất cả đều theo truyền thống Phật giáo Mahayana và phần lớn được thành
lập vào sau năm 1945.
Trong 18 tông phái trên, nổi bật và có tầm ảnh hưởng sâu
rộng nhất là Thiền phái Tào Khê (Tào Khê là một tên gọi khác của Lục
tổ Huệ Năng, 638-713) được thiền sư Thái Cổ (1301 - 1382), một tăng sĩ
Hàn Quốc nổi tiếng trở về từ Trung Hoa vào năm 1346 và lập nên thiền
phái này. Ngài cho rằng thiền là một pháp tu tốt nhất để đạt tới giác
ngộ. Những bộ kinh căn bản của thiền phái này là Kinh Bát Nhã, Kinh Kim
Cang, Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Hoa NghiêmẨ có khoảng 1632 ngôi chùa là chi
nhánhở khắp trong và ngoài Triều Tiên, và có khoảng 18.000 tăng ni và khoảng
6.000.000 tín đồ qui y theo phái này.
Về mặt giáo dục, hầu hết các ngôi chùa hiện nay đều có xây dựng
nhà trẻ và trường tiểu học. Đây là một truyền thống đẹp, bởi vì
xưa nay các tăng sĩ Triều Tiên đều đóng vai trò quan trọng trong lãnh vực
giáo dục phổ cập. Hiện tại PGTT, có nhiều trường sơ, trung đẳng Phật
học và một trường Đại Học PG ở Dong-Guk, trường này có chi nhánh ở
Seoul và Kyongju, chỉ đặt biệt dành cho tăng ni học mà thôi.
-- Về Bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên khắc trên gỗ:
Như đã nói ở trên bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên (ĐTKTT) đã được chuyển
ngữ, rồi khắc trên bản gỗ và được bảo trì trong Tàng Kinh Cát tại
chùa Kang-Wha vào thế kỷ thứ 11, (chùa này được xây dựng vào năm 1488).
Vào 1817 tàng Kinh cát này đã may mắn thoát khỏi cơn hỏa hoạn . Nhưng rủi
thay, số phận của bộ ĐTK này đã bị thiêu rụi bởi ngọn lửa xâm lăng
của Mông Cổ. Đến thế kỷ 13 bộ ĐTK mới được khắc trở lại theo
chiếu chỉ của vua Kojong ( 1213-1259) và được bảo trì tại chùa Hải Aán
(Haein-sa) cho đến ngày nay. Sau đây là một vài ghi nhận về quá trình chạm
khắc bộ ĐTK này: Chọn loại gỗ bu-lô trắng rồi đem ngâm dưới nước
biển ba năm, sau đó vớt lên phơi khô ba năm, rồi mới sử dụng để khắc
chữ. Người ta ghi nhận rằng công trình vĩ đại này chỉ do một nam Phật
tử thực hiện ròng rã trong 16 năm để hoàn thành 52.382.960 chữ, gồm 6791
quyển.
Nhìn chung từ sau ngày Triều Tiên giành lại nền độc lập cho nước nhà,
Phật giáo đã đối phó với nhiều thách thức của thế giớùi hiện đại.
Từng bị lãng quên một thời gian dài nơi rừng sâu, nay đã trở lại sinh
hoạt nơi thị thành. Thiền phái Tào Khê đã đóng một vai trò trung tâm
trong quá trình hoàng dương Chánh Pháp trong suốt chiều dài lịch sử của
xứ sở này. Ngày nay có rất đông giới trẻ Triều Tiên đã chú ý và
tham gia vào các sinh hoạt Phật Pháp như ghi danh theo học các khóa giáo lý,
khóa tu thiền ngắn hạn, công tác từ thiện xã hội... Những phát triển
của giới ni gần đây cũng đáng chú ý, người ta tin tưởng rằng Phật
giáo Triều Tiên ủđang trên đà phát triển mạnh và đầy lạc quan ở
tương lai.
(Tổng hợp từ tài liệu: Korean
Buddhism Magazine( Seoul/1997)
Tài liệu này do phái đoàn Phật Giáo Triều Tiên trao tặng nhân dịp các vị
đến Úc tham dự Đại Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới lần thứ 20
được tổ chức tại Sydney, Úc Châu, 1998)
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nuoc/017-trieutien.htm
|
|