...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Phật giáo tại
Nga
- Minh Ngọc
* Tại Liên Hịêp Nga (The Russian Federation), Phật
Giáo vừa hồi sinh, vừa phát triển rất nhanh, và mạnh. Hiện có hàng triệu
người Nga tín ngưỡng Phật Giáo.
* Ba nước Cộng Hòa Phật Giáo (The Three Buddhist Republics):Kalmykia, Tuva,
Buryatia dân
chúng đều là tín đồ Phật Gíáo. Chỉ riêng nước Cộng Hòa Phật Giáo
Buryatia đã có dân số hai triệu (2.000.000) người hoàn toàn là Phật Tử.
* Chùa Kuntsechoinei Datsan xây vào năm 1908 ở Petersburg (Leningrad cũ) là ngôi
chùa đãu tiên và xưa nhất ở nước Nga nói riêng và ở Tây Phương nói
chung.
Moscow (Mạc Tư khoa) sẽ có một ngôi chùa và tu viện Phật Giáo đầu tiên
ở thủ đô. Từ khi thủ đô nước Nga chỉ có một số ít Phật Tử thì
nhu cầu cho một ngôi chùa và tu viện chưa bao giờ được nghĩ tới trước
đó. Nhưng bây giờ thì số người Nga quy y Phật Giáo ở thủ đô Moscow mỗi
ngày một gia tăng đáng kể nên Hội Ðồng Phật Giáo Nga đã quyết định
xây cất một ngôi chùa không những chỉ dành cho các Phật Tử người nước
ngoài thuộc các phái đoàn ngoại giao có tín ngưỡng Phật Giáo nữa.
Thời Nga Hoàng còn tại vì, Phật Giáo cũng rất thịnh hành ở nước Nga,
có rấ nhiều người quy y, tu học. Nhiều chùa và tu viện Phật Giáo được
xây cất khắp nơi. Chính em ruột của Nga Hoàng Nicholas II là hoàng thân
Ukhtomsky cũng là một nhà nghiên cứu Phật Học và Ðông Phương học nỗi
danh. Vị hoàng đệ này đã ủng hộ và thuyết phục Nga Hoàng về việc
cho phép xây cất ngôi chùa Kuntsechoinei Datsan ở thành phố Petersburg vào năm
1908. Ðức Ðạt Lai La Ma thứ 13 cũng cúng dâng nhiều công đức về tịnh
tài và pháp cụ cho ngôi chùa đầu tiên ở nhước Nga.
Nhưng cuộc biến loạn tháng 10 năm 1917 do những người Cộng Sản chủ xướng
đã tàn phá tất cả các tôn giáo, trong đó Phật Giáo cũng bị ảnh hưởng
nặng nề . Nhưng vào cuối thập niên 1980, chế độ đã hoàn toàn sụp đỗ
ở nước Nga và các nước ở Ðông Âu nên đã có nhiều chuyển đổi thuận
lợi cho Phật Giáo có cơ hội phục hồi lại như xưa ở nước Nga.
Một tu viện Phật Giáo bị đóng cửa từ năm 1930 trong thời kỳ chống báng
tôn giáo của Josef Stalin đã được sửa chữa và mở cửa lại cho các
tín đồ Phật Giáo sinh hoạt.
Thành phố Petersburg có truyền thống nghiên cứu và sưu khảo về Phật Giáo
. các học giả trong quá khứ đã giảng giải những cổ ngữ và kinh sách
Phật Giáo. Truyền thống nầy lại được tiếp tục bởi các nhà nghiên cứu
và sưu khảo ngày nay. Phật Giáo là một sinh lực linh động ở vùng đông
Siberia thuộc nước Cộng Hòa Phật Giáo Buryatia. Những vùng khác như Chita,
Irkutsk đã có những cơ sở lớn nhất của các Phật Tử Nga để tu học.
Hiện có ba nước Cộng Hòa Phật Giáo trong Liên Hiệp Nga ngày nay . Ðó là
Kalmykia, Tuva, và Buryatia mà dân số hầu hết là Phật Tử. Riêng nước Cộng
Hòa Phật Giáo Buryatia đã có tổng số dân hai triệu (2, 000, 000) người hoàn
toàn theo tín ngưỡng Phật Giáo với nhiều chùa, tháp, tu viện và các cơ
sở Phật Giáo còn tồn tại. Ngoài ra, củng còn một số dân theo Phật
Giáo sống trong nhiều vùng đất khác ở Trung Á nữa.
Vào tháng 6-1990, tại một buổi lễ ở chùa Ivolginsky Datsan trụ sở của
các Phật Tử Nga, các vị Tăng, Ni và cư sĩ Phật Tử Á Châu đã tham dự
phiên họp Hội Ðồng Chấp Hành Thế Giới về Ðại Hội Hòa Bình Phật
Giáo Á Châu, một tổ chức cổ vũ hòa bình và hài hòa dựa trên những lời
dạy của Ðức Phật. Các nhà lãnh đạo và học giã Phật Giáo từ nhiều
nước Á Châu tham dự hội nghị củng kêu gọi sự nghiên cứu về di sản
và văn hóa Phật Giáo có tính sử học. Các vị đại biểu Phật Giáo Nga
trong Hội Ð?ng Chấp Hành còn đề nghị thành lập ũy ban văn hóa, truyền
thống và di sản Phật Giáo nằm trong cơ cấu tổ chức Ðại Hội Hòa
Bình Phật Giáo để ủng cố sự đoàn kết giữa các Phật Tử Á Châu và
các Phật Tử thế giới.
Mới đây chính phủ đã hoàn trả các Phật Tử Nga ngôi chùa ở Petersburg
bị quốc hữu hóa vào năm 1938. Người ta không khỏi phải hỏi rằng làm
thế nào ngôi chùa phi thường đó lại tới đứng giữa vùng sương mù của
vịnh Phần Lan? Câu trả lời nằm trong sự kiện đế quốc Nga bao gồm cả
những Phật Tử vùng Transbai Kalia và những Phật Tử thuộc sắc tộc
Kalmuck đã di dân xuống vùng hạ lưu sông Volga thuộc nước Nga.
Sự hiện diện của Phật Giáo đã được sự độ lượng của nhà cầm
quyền Nga Hoàng thời đó vì nhiều lý do thực tế: Phật Giáo củng hướng
vào sự học hỏi uyên bác. Phật Giáo cũng dạy con người về đạo đức,
luân lý, cải tạo con người trở thành tốt đẹp, giúp ổn định sự an
sinh xã hội. Phật Giáo cũng đóng góp nhiều công trình về văn minh, văn hóa,
kiến trúc, hội họa, âm nhạc và tập quán tốt đẹp cho quốc gia.
Những nhà Phật Học nỗi danh là những Phật Tử Nga hồi đầu thế kỹ
20 như: Ivan Minayev, Sergei Oldenburg, Fyodor Stcherbatsky, Theodore Stcherbatsky và
Cibikov là những Phật Tử tiên phong ở nước Nga. Thời đó Phật Giáo
phát triển đến độ có cả trăm ngôi chùa và tu viện. Số Tăng, Ni xuất
gia tu học lên tới cả nghìn người. Nhưng cuộc bạo động lật đỗ chế
độ quân chủ ở Nga vào năm 1917 đã làm thay đổi tất cả chỉ trong vài
năm, chế độ sắt máu cuả Lenin rồi Stalin đã hũy diệt tất cả các
chùa, tu viện. Lại thanh toán tất cả những vị Tăng, Ni nào trái lệnh
không chịu hoàn tục vào năm 1939, Phật Giáo và các tôn giáo khác hầu như
mất hẳn ở nước Nga.
Rồi thế chiến II xẩy ra, Stalin phải dấy lên cuộc chiến tranh ái quốc
(Patriotic War) với nước Ðức nên các tôn giáo lại được nhân nhượng
phần nào, cốt để xoa dịu hầu động viên vào cuộc chiến. Ðược sự
nhân nhượng này, nhà lãnh đạo cũ của Phật Giáo Nga là Hòa Thượng
Dandido Khamdo lại xuất hiện để cổ vũ sự phục hưng Phật Giáo. Nhưng
khi chiến tranh chấm dứt, sự tuyên truyền bài xích tôn giáo lại được
chế độ Cộng Sản phát động cùng lúc nhằm loại trừ Phật Giáo ra khỏi
tâm trí của mọi người. Thái độ hàng hai này vừa nhân nhượng, vừa loại
trừ được tiếp tục trong nhiều năm .
Ðến cuối thập niên 1960 thì nhà cầm quyền trở nên lưu ý vì nhận thấy
nhiều nhà trí thức ở khắp nơi đang quy tụ quanh nhà Phật Học nổi danh
là cư sĩ Bidya Dandaron. Mật vụ KGB đã chụp bắt và lên án tù chung thân
vị cư sĩ này trong trại lao động khổ sai chỉ vì tội danh duy nhất là:
" Truyền bá Phật Giáo". Hội Ân Xá Quốc Tế đã can thiệp nhiều
lần, yêu cầu chính quyền Cộng Sản Liên Xô phóng thích vị cư sĩ này.
Tiến sĩ Andrei Sakharov - người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1975
- củng tích cực can thiệp để trả tự do cho cư sĩ Bidya Dandaron.
Nhưng tất cả đều thất vọng và vị Bồ Tát Hoá Thân này đã tử đạo
trong trại lao động khổ sai, trong khi một chân đã bị đánh gẫy vì những
lần tra tấn dả man mà vẫn phải bò lết (vì đi không được) lao động.
Sự hà khắc này làm xúc động nhiều người. Nhưng nhưng4 Phật Tử trung
kiên phần lớn là học trò cuả vị cư sĩ này vẫn tiếp tục tu học Phật
Pháp một cách kín đáo và nhiệt thành trước sự đàn áp của Cộng Sản.
Sau này các Phật Tử người Nga đã kể lại những chuyện tu học thầm
kín đó như sau:
" Khi tham dự một hoạt động Phật sự nào như Thiền, tụng niệm,
thuyết pháp, đọc kinh sách, báo Phật Giáo v.v...ở một nơi nào đó. Các
Phật Tử thường không đến thẳng nơi đó mà hẹn ở một trạm xe điện
chẳng hạn. Rồi được một Phật Tử tới đón về nơi đó. Phật sự diễn
ra trong căng phòng chật cứng những người yêu đạo; những bức tường
quanh phòng có các hàng kệ xếp đầy kinh sách Phật Giáo. Ðiều nầy chứng
tỏ sự học hỏi giáo pháp một cách thuần thành và uyên bác của người
Phật Tử Nag. Không còn nghi ngờ gì nữa về sự nhiệt tâm và lòng thành
của họ đối với Tam Bảo. Có nhiều người đã chọn những nghề bình
thường để thích ứng hơn với sự tu học Phật Pháp thay vì những nghề
cao sang. Có người thường xuyên đến tu học vào mùa hè ở Transbaikalia.
Ðoàn Phật Tử nầy lại tiếp xúc với các đoàn Phật Tử tương tự và
do đó tin tức về Phật Giáo được loan truyền rất nhanh. Do vậy mà ai cũng
biết rằng điều gì đang xãy ra và đức tin của họ lại càng vững chic
hơn. Phật Tử Nag van tích cực tu học một cache them ling NHK là sau thời
Josef Stalin.
"Họ tổ chức luân phiên tại nhà riêng các đạo hữu những buổi lễ
tụng niệm, thiền, thuyết pháp, trao đổi những tin sinh họat Phật Giáo
ở trong nước và tin Phật Giáo ở các nước trên thế giới mà họ có
được hay chuyền cho nhau những sách báo Phật Giáo từ nước ngoài. Mỗi
khi tổ chức như vậy phải đặt người canh gác mật vụ KGB và công an
NKVD vì nếu bị bắt, sẽ lãnh án cải tạo khó có ngày về vì tội truyền
bá tôn giáo. Thời Cộng Sản, hiến pháp Liên Xô có ghi hai điều: "Quyền
tự do không tín ngưỡng " và " Quyền tự do chống tín ngưỡng",
bên cạnh điều : "Quyền tự do tín ngưỡng"."
"Sự tu học của Phật Tử Nga rất đáng khâm phục. Có người phải
đi bộ hàng trăm cây số dù nắng, mưa, bảo, tuyết để đến nơi tu học
nói trên. Có người cố học thuộc các đoạn kinh Phật, sách hay tin Phật
sự ở các báo nước ngoài vì không thể đem theo các tài liệu này sợ bị
bắt, để phỗ biến cho các Phật Tử khác. Những chuyện như thế sau này
được kể lại đã làm xúc động thế giới."
Trong bầu không khí "Glasnot" tự do ở cuối thập niên 1980, và cuộc
chuyển đổi ôn hòa từ Cộng Sản sang Dân chủ của ông Mikhail Gorbachev
và ông Boris Yelsin, người dân Nga đã được hưởng đầy đủ các quyền
tự do, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng. Do đó, Phật Giáo đang sinh
động và phục hồi trên khắp nước Nga.
Ðể tránh sự khó khăn và không an toàn của tình trạng bất hợp pháp,
các đoàn thể Phật Giáo trên khắp nước Nga phải đăng ký để được
phép hoạt động. Trên lý thuyết không còn một trở ngại nào nghiêm trọng
vì Phật Giáo và các tôn giáo ở nước Nga không còn bị coi như thành phần
tranh chấp về chính trị như thời Cộng Sản. Do đó rất nhiều tổ chức,
hội đoàn Phật Giáo đã được thành lập và đăng ký sinh hoạt ở nhiều
nơi trên nước Nga.
Hội Phật Giáo Petersburg (The Petersburg Religion Society Of Buddhists) đã có năm
nghìn Phật Tử ghi danh chính thức gia nhập hội. Còn nhiều Phật Tử khác
chưa ghi danh. Hội nầy cũng được chính phủ trao trả lại ngôi chùa cổ
Kuntsechoinei. Chùa đã được sửa chữa, tu bổ và hiện do Thượng Tọa
Gelong Sameyev, người Nga, trụ trì. Lúc nầy chùa đang có hai mươi sa di người
Nga tu học.
Hội Phật Giáo Estonia (The Estonian Buddhist Association) với hai nghìn Phật Tử
hội viên.
Còn nhiều hội đoàn Phật Giáo khác ở Riga, Latvia, Novosibirsk, Kiev, và
Khalev cũng được thành lập.
Hai ngôi chùa Ago và Ivolga đã được trùng tu và là nơi sinh hoạt cho hai
mươi đoàn Phật Tử ở Siberia. Cộng đồng Phật Giáo Tashkent đã đăng ký
và khởi sự sinh hoạt.
Một trung tâm Phật Giáo mới được khánh thành ở Kalmykia. Cộng đồng Phật
Giáo ở thủ đô Moscow rất phát triển với hai mươi nghìn Phật Tử. Các
Phật Tử ở đây có hai hạnh nguyện là xuất bản một tờ báo Phật
Giáo để có phương tiện tu học, nghiên cứu về giáo lý, triết lý, kinh
sách Phật Giáo; cũng như phương tiện truyền thông tin tức, sinh hoạt và
tình hình Phật Giáo ở nước Nga và các nước trên thế giới. Hạnh nguyện
này đã thành. Tờ báo Phật Giáo đã xuất bản do cô Sasha Iakoleva làm chủ
nhiệm. Báo phát hành toàn nước Nga. Ở thủ đô Moscow đã có mười nghìn
độc giả. Hạnh nguyện thứ hai là tìm kiếm một vùng đất thật rộng lớn
để kiến tạo một cảnh chùa thật hùng vĩ, đồ sộ tượng trưng cho Phật
Giáo phát triển dũng mãnh ở thủ đô và các thành phố khác ở nước
Nga. Việc tìm kiếm vùng đất trống ở ngay thủ đô lúc này rất khó khăn
và không thể làm được. Do đó Hội Ðồng Phật Giáo Nga đã mua một cao
ốc ba tầng rất to lớn, nguyên là một nhà kho để cải biến thành ngôi
chùa Phật.
Phật Giáo Nga cần một số tiền rất lớn: một triệu (1,000,000) Mỹ kim
để mua cao ốc và vùng đất bao quanh. Nhờ đạo tâm cao cả vì Phật
Pháp, các Phật Tử Nga đã cúng dâng đầy đủ số tiền này. Khu cao ốc
đã mua xong và hiện đang ở giai đoạn chỉnh trang, biến cải và xây dựng
bên trong cũng như bên ngoài để tạo tác thành ngôi chùa thờ Phật uy nghi
ở thủ đô. Các kiến trúc sư va kỹ sư các ngành đang thực hiện Phật sự
to lớn này.
Thời Cộng Sản, sự nghiên cứu và tu học Phật Pháp thật vô cùng khó khăn.
Vào thời nhà Phật Học Bidya Danderon chỉ có một số rất ít kinh sách Phật
Giáo được coi như "thích hợp với khoa học" (deemed to be
scientific) mới được in dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền. Sau thời
Cộng Sản các Phật Tử Nga đã hướng về các nước Phật Giáo Á Châu
và các tổ chức Phật Giáo ở Âu Châu, Mỹ Châu và Úc Châu để được
cung cấp toàn bộ Tam Tạng Kinh Ðiển và các sách báo cần thiết về Phật
Giáo.
Nhưng hiện tại thì Phật Giáo ở Nga đã có quyền hợp pháp nên các kế
hoạch tích cực đã sẵn sàng để in những bộ kinh Phật Giáo và các
sách báo ngay tại nước Nga. Song song với công việc này, các Tăng, Ni, Cư
sĩ giảng sư và học giả Phật Giáo từ nhiều nước vẫn thường xuyên
đến giúp đỡ các Phật Tử Nga. Thiền Giả Joseph Goldstein và Sharon
Salzburg thuộc The Insight Meditation Society (Hội Thiền Minh Sát) ở tiểu bang
Massachusetts, Hoa kỳ vẫn thực hiện các lớp hướng dẫn Phật Pháp và
các khóa tu thiền cho các Phật Tử Nga hàng năm. Có rất nhiều tổ chức
Phật Giáo ở nước Anh và nhất là Chư Tăng ở chùa Chiswick nước Anh
cũng thường đến hoằng dương Phật Pháp ở mhiều thành phố trên nước
Nga. Hai nhà Phật Học nổi danh Ole Nyadal, người Ðan Mạch và Alexander
Berzin, người Mỹ, cũng thường thực hiện nhiều chuyến đi truyền bá Phật
Giáo. Cùng lúc các giáo đoàn trực thuộc Phật Giáo Finland (Phần lan), Phật
Giáo Scotland (Tô Cách Lan) và giáo đoàn Phật Giáo Tây Phương (The Western
Buddhist Order) do Thiền Sư Sangharakshita, người Anh lãnh đạo, đang hoạt động
truyền bá Phật Giáo tại chín mươi (90) nước trên thế giới, đã thiết
lập chương trình "hoằng dương Phật Giáo " dài hạn và thường
trực tại nước Nga. Nhiều tổ chức Phật Giáo tại Hoa Kỳ đã đề ra
"mười hai (12) phương hướng khôi phục và phát triển Phật Giáo
Nga." Ðại Ðức Karma Jiga (Alex Duncan), người Scotland, xuất gia đã 20 năm
tình nguyện đến nước Nga để tuyên giáo.Ðại Ðức Karma Jiga phát nguyện
đi khắp nước Nga để thuyết pháp, hướng dẫn các khóa tu học Phật
Pháp, các khóa tu thiền. Vì thông thạo tiếng Nga, Ðại Ðức lại thuyết
pháp cả trên đài truyền thanh và truyền hình ở nhiều thành phố. Thượng
Tọa Gelong Sameyev cho biết Phật Giáo Nga có chương trình phát thanh và phát
hình hàng tuần ở thủ đô Moscow và nhiều thành thị khác.
Vào ngày 25 tháng 9 năm 1996, một Trung Tâm Phật Giáo ở thủ đô Moscow được
khánh thành do lòng thành ước nguyện của các Phật Tử khắp thế giới.
Ðại Ðức Yeshe Losal, người Tây Tạng, đã viếng thăm thủ đô Moscow vào
đầu năm 1997 và đã đến Trung Tâm nầy giảng dạy Phật Pháp. Sau khóa giảng
đã có năm mươi (50) người Nga xin quy y (took refuge). Thấy lòng thành tu học
của các Phật Tử Nga, Ðại Ðức Yeshe Losal đã nói: "Tôi chưa bao giờ
thấy sự khao khát về việc tu học Phật Pháp như vậy." (I ' ve never
seen such hunger for Dharma teachings.) Ðến đầu tháng 4 măm 1998, Ð?i Sư Akong
Tulku Rinpoche, người Tây Tạng từ Scotland sang nước Nga giáo hóa và đã tới
Trung Tâm làm lễ quy y cho tám mươi (80) người Nga xin thụ lễ, Ni Cô Ani
Zangmo đã xuất gia được mười một (11) năm ở tu viện Phật Giáo Samye
Ling nước Scotland đã tới giúp các Phật Tử Nga trong việc thiết lập
Trung Tâm nầy.
Từ ngày 21 tháng Tư đến 15 tháng Năm năm 1998, Cộng Ð?ng Phật Giáo
Dzogchen (The Dzogchen Community Of Russia) đã tổ chức ba buổi tu học Phật
Pháp và ba lớp giáo lý Phật Giáo do Cư Sĩ Chogyal Namkhai Norbu, người Tây
Tạng, hướng dẫn đã được một ngàn năm trăm (1500) người Nga và một
số Phật Tử người Mỹ, Pháp, Anh, Ý, Ðức, Phần Lan đang du lịch ở nước
Nga tham dự rất thuần thành. Còn ba lớp giáo lý được chia làm hai cấp
- Cấp sơ đẳng Phật Pháp được hướng dẫn bỡi Cư Sĩ Fabio Andrico, người
Nga, có chín trăm (90) người Nga tham dự.
- Cấp trung đẳng Phật Pháp được hướng dẫn bởi Cư Sĩ Alexander
Dubronravoff, người Nga, có bảy trăm (700) người Nga tham dự.
Cũng trong thời gian này, cư sĩ Adriana Dal Borgo, người Ba Lan, đã hướng dẫn
khóa nghi thức hành lễ và tụng niệm cho hai trăm (200) người Nga mới quy
y Tam Bảo.
Ðược biết Cư Sĩ Chogyal Namkhai Norbu đã có chương trình giảng dạy Phật
Giáo hàng năm ở nước Nga và vị Cư Sĩ này đã đến nước Nga nhiều lần;
và lần nào cũng vậy các khóa tu học Phật Pháp do Cư Sĩ hướng dẫn điều
có rất ông người Nga đăng ký tham dự rất nhiệt tâm, nhiệt thành.
Ngoài việc hoằng hóa Phật Pháp hàng năm ở nước Nga, Cư Sĩ Chogyal
Namkhai Norbu còn đến hoằng hóa ở các nước Ba Lan, Áo, Ðức, Pháp, Ý,
Anh, Tiệp và Lithuania.
Những sự kiện trên chứng tỏ sự lợi lạc của việc tu học Phật Pháp
đối với dân chúng Nga đang thể hi?n rất rõ ràng và rất mạnh mẽ.
Sự hồi sinh và phát triển của Phật Giáo tại Nga đang diễn tiến với
chiều hướng vô cùng thuận lợi và đã gặt hái được nhiều thành quả
viên mãn.
Cư Sĩ John Snelling- một Phật Tử người Anh đã viết về sự phục hoạt
và chấn hưng của Phật Giáo Nga sau thời Cộng Sản như sau:
"Its ability to rise phoenix-like from the ashes of the Stalinist holocaust has amply
demonstrated the spiritual robustness of tradition of Russian Buddhism. The present
resurgence is therefore hopefully a harbinger of greater things to come. It is also part
of a general growth of interest in the study and practice of Buddhism that is already a
significant spiritual factor in both Europe and North America."
(Khả năng (của Phật Giáo) là vươn lên như chim phụng hoàng từ những đống
tro tàn do sự thiêu hủy của thời Stalin để biểu dương phong phú tinh thần
dũng mãnh cho truyền thống của Phật Giáo Nga. Sự vươn lên hiện tại
được coi như việc báo trước đầy hy vọng những công việc to lớn
đang tiến tới. Ðây cũng là một phần của sự lớn mạnh tổng quát
trong việc chú tâm đến sự nghiên cứu và tu học Phật Giáo như là nhân
tố tinh thần đầy ý nghiã ở cả Âu Châu và Bắc Mỹ nữa.)
Thượng Tọa Gelong Samayev rất lạc quan và tin tưởng vào tương lai của Phật
Giáo Nga. Ngài đã có những kế hoạch to lớn để chấn hưng và canh tân nền
Phật Giáo tại nước Nga cho phù hợp với tình trạng hiện nay của đất
nước và dân chúng Nga. Thượng Tọa nói: "In the spiritual and ideological
vacuum caused by the failure of Marxist, Leninist ideology, Buddhism had something special
to offer the people of Russia." (Trong sự thiếu vắng về tinh thần và tư
tưởng do sự sụp đỗ của ý thức hệ Mác-xít, Lê-nin-nít, Phật Giáo đã
có những điều đặc biệt để cống hiến cho dân chúng Nga.)
Phật Giáo Nga đang xây dựng lại tất cả những gì đã mất mát, đỗ vỡ
do 72 năm tàn phá của những người Cộng Sản gây nên. Hàng triệu Phật Tử
Nga gần mười năm qua đã phát "Bồ Ðề Tâm", "Bồ Tát
Tâm" để khôi phục lại Phật Giáo và phát huy nền Phật Giáo mà
thành quả thật vô cùng viên mãn, tràn đày.
Các Phật Tử Nga lúc nào cũng kiên trì tu học Phật Pháp, bảo vệ Phật
Pháp và hoằng dương Phật Pháp dù có gian nguy đến mấy cũng một lòng sắt
son với Phật Pháp. Nghe những chuyện của Phật Tử Nga phải gian Nan tu học
Phật Pháp âm them và Len let dưới thời Cộng Sản và thấy những hình nh
của các Phật Tử Nga chi tâm, chi thành tu học Phật Pháp thuẩn thành và
nhiệt tâm sau thời Cộng Sản thì thấy đạo tâm của người Phật Tử
Nga vô lượng, vô bin như thế nào.
Ðồng như đạo hữu John Snelling đã viết về Phật Giáo Nga: "Khả năng
của Phật Giáo là vươn lên như chim phụng hoàng từ đống tro tàn do sự
thiêu hủy của thời Stalin để biểu dương tinh thần dũng mãnh cho truyền
thống của Phật Giáo Nga."
Truyền thống của Phật Giáo Nga vẫn sống mãi trong tâm trí của người
Phật Tử Nga.
Tham Khảo
- * SÁCH:
1- BUDDHISM IN RUSSIA, John Snelling, Element Publication, 1993, Massachusetts,
U.S.A.
2- Phật giáo trong thế kỷ mới, II, Giao Ðiểm Xuất bản,1997, California,
Hoa Kỳ.
*BÁO:
1- THE MIDDLE WAY: August 1990, Vol.65, No.2; August 1991, Vol.66, No.2;
November 1991, Vol.66, No.3, The Buddhist Society, London, England.
2- THE MIRROR: Newspaper of the International Dzogchen Community: June-July 1998,
Issue No.45, Conway, Massachusetts, U.S.A.
3- HOA SEN: Số 34, Phật Lịch 2534, Chùa Giác Minh, East Palo Alto,
California, Hoa Kỳ.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nuoc/030-PGtaiNga.htm
|
|