- PHẬT GIÁO DƯỚI TRIỀU
ĐẠI GUPTA VÀ HẬU GUPTA
- Kanai-Lal-Hazra
-
Đầu thế kỷ thứ IV TL minh chứng
sự khởi nguyên của triều đại Gupta đã đánh dấu một thời kỳ quan trọng
về lịch sử chính trị cũng như tôn giáo của Ấn Độ cổ đại. Theo các
sử liệu khắc ghi trên đá, vua Gupta hay còn gọi ‘Srìgupta, niên hiệu Mahaaraaja, đúng là người đã
thành lập triều đại Gupta. Trong thời kỳ này, Phật giáo trở nên nổi bật
trong số các tôn giáo. Trong việc nghiên
cứu lịch sử và sự phát triển của Phật giáo dưới triều đại Gupta,
chúng ta đặc biệt mang ơn các nhà chiêm bái Trung Hoa. Điều chúng ta quan
tâm lưu ý ở đây là ngài Pháp Hiển đã đến Ấn Độ chiêm bái khi những vua của triều đại
Gupta còn đang trị vì, nhưng Ngài lại không nói rõ tước hiệu của vua nào
trong giai đoạn đó. Chính vì thế, sử liệu của Ngài không cung cấp cho
chúng ta biết bất kỳ một sự kiện nào có liên quan đến nhữngï đóng
góp của các vua Gupta cho công cuộc phát triển Phật giáo trong vương quốc
của họ. Ngài Nghĩa Tịnh đã mô tả
rằng vua Mahaaraaja ‘Srìgupta cùng với sự ủng hộ tài vật của 24 ngôi
làng đã xây dựng một ngôi Chùa Phật giáo, còn được biết là Chùa
Trung Hoa nằm gần vùng M.rga’sikhaavana cách Nàlandà khoảng 40 do tuần về
hướng Đông, dọc theo dòng sông Hằng, tạo điều kiện thuận lợi cho những người hành
hương Trung Hoa từ Sz-chuen thuộc Trung
Quốc đến Tháp Đại Giác ở Bồ-đề Đạo tràng (Bodh Gayà) (1). Một số
học giả nghĩ rằng vua này chính là người sáng lập triều đại Gupta và
ngôi Chùa này nằm trong lãnh địa Ma-kiệt-đà ø(Magadha). Ngài Nghĩa Tịnh
nói niên đại này dựa trên nền tảng câu chuyện do các bậc tiền bối kể
lại từ thời xa xưa(2). Tác phẩm Cuộc Đời
Ngài Huyền Trang (The Life of Hiuen-tsang) ghi: “Truyền thuyết cho rằng, đầu
tiên vua Mahaaraajana ‘Srìgupta đã tạo dựng ngôi Chùa này cho chư Tăng
Trung Hoa tu tập. Việc có khoảng 20 Tăng sĩ Trung Hoa từ Sz-chuen đến Bồ-đề
Đạo Tràng để đảnh lễ Thánh địa đã thúc đẩy nhà vua làm việc
này. Vì cảm phục lòng mộ đạo của họ, nhà vua đã cúng dường cho các
Tăng sĩ một khu đất và tổng thu nhập thuế
hàng năm của khoảng 20 ngôi làng. Sự kiện này đã xảy ra cách đây khoảng
500 năm.”(3) Trích dẫn trên gợi ý cho chúng ta thấy rằng vua ‘Srìgupta trị vì vào thế kỷ thứ II TL, điều này
thật quá sớm đối với một vị vua
của triều đại Gupta (4). Ngài Huyền Trang còn nhắc tới vua ‘Srìgupta như
được trình bày trong đoạn văn dưới đây: “Cách không xa về hướng Bắc
của vùng này là một cái hào sâu và rộng; đây là nơi mà vua ‘Srìgupta
nghe theo lời của ngoại đạo, muốn
giết Đức Phật bằng lửa được giấu kín dưới hào này và bằng thức
ăn có tẩm độc dược(5). Thế thì, dường như vua ‘Srìgupta là người cùng
thời với Đức Phật. Như vậy, thật khó chấp nhận quan điểm trên là
đúng.
Triều đại của vua Samudragupta
đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong lịch sử Ấn Độ. Ngài Wang-Hiuen-tse, nhà chiêm bái
Trung Hoa vào thế kỷ thứ VII TL, đã trình bày rõ mối quan hệ văn hoá giữa
Ấn Độ và Tích Lan dưới triều đại
vua Samudragupta (6). Ngài viết rằng Srii-Meghavar.nan
hay còn gọi là Meghavarman, người cai
trị Tích Lan vào giữa thế kỷ thứ IV TL, đã truyền lệnh cho những công
sứ mang phẩm vật đến dâng tặng vua Samudragupta và xin được xây dựng một
Tu viện tại Bồ-đề Đạo tràng (‘Bodh Gayàø). Truyền thuyết cho rằng
khi vua Srii-Meghavarman đang trị vì, hai Tăng sĩ
Phật giáo Tích Lan là Mahaanaama và Upa đã đến Bồ-đề Đạo
tràng để chiêm bái Kim Cang tòa, nơi Đức Phật thành đạo, nhưng họ không
tìm thấy phòng nghỉ nào tiện nghi để có thể tạm trú ở đây.
Khi trở về đất nước, họ đã thuật lại vấn đề này với vua Tích Lan ‘Sri-Meghavarman
và cầu mong vua nên làm một điều gì đó cho những người hành hương Tích
Lan. Nhà vua phái các sứ thần đến vua Samudragupta, vị vua này đã hài
lòng đáp ứng nguyện vọng của vua Tích Lan và cho phép xây dựng một Tu
viện đồ sộ tại đó. Ngài Huyền Trang cũng đề cập câu chuyện này như
sau:(7) Ngài nói rằng, thái tử Tích Lan là một Tăng sĩ Phật giáo, đã đến
Ấn Độ để chiêm bái các Thánh địa,
nhưng Thái tử không tìm thấy bất cứ một Tu viện nào tại xứ này để
Ngài tạm nghỉ một vài ngày cho tiện nghi. Khi thái tử trở lại đảo quốc,
Ngài đã trình vấn đề này với vua Tích Lan và xin vua xây dựng
nhiều Tu viện ở những nơi Thánh địa trong khắp Ấn Độ. Do sự thỉnh cầu này, vua Ấn Độ Mahà ‘Srì Ràja người đã được các
học giả đánh đồng với vua Samudragupta đã giúp đỡ việc xây dựng một
Tu viện tại một trong những thánh địa nơi
Đức Phật lưu dấu. Với
sự chấp thuận của vua Mahà‘Srì Ràja, vua Tích Lan đã kiến thiết Tu viện
Mahàbodhi tại Bồ-đề Đạo Tràng. Ngài Huyền Trang còn nói thêm rằng khi
Ngài đến Bồ-đề Đạo Tràng (‘Bodh Gayàø), Ngài
nhìn thấy khoảng 1000 Tăng sĩ thuộc
Phật giáo Đại thừa tu tập tại Tu viện này.(8) Hai bia ký của Bồ-đề
Đạo Tràng (‘Bodh Gayàø) đề cập đến tên của Trưởng lão Mahànàma
làm vững thêm tài liệu của những nhà chiêm bái Trung Hoa.
Vào đầu
thế kỷ thứ V TL, ngài Pháp Hiển đã sống nhiều năm ở vương quốc của
vua Chandragupta II, con của vua
Samudragupta. Mặt dù sử ký của Ngài bao gồm nhiều dữ kiện phong phú(9) về
sự truyền bá Phật giáo trong quần chúng vào thời vua Chandragupta II, nhưng
nhật ký của Ngài vẫn không đề cập tới tên của bất kỳ một vua
nào. Tuy thế, sử ký của Ngài chắc chắn nhuốm màu Phật giáo dưới triều
đại vua Chandragupta. Ngài Pháp Hiển mô tả là Ngài đã tìm thấy 2Tu viện
thuộc Tăng sĩ của cả hai hệ phái,
Đại thừa và Tiểu thừa tại Pàt.aliputra . Nhiều Tăng sĩ cư trú trong cả
hai Tu viện cùng một lúc con số lên đến 600 hoặc 700 vị và các Ngài rất
nổi tiếng uyên bác trong lãnh vực học thuật đến nỗi các bài thuyết
giảng của các Ngài thường được các sinh viên và các thính giả bốn phương
đến nghe(10). Ngài Pháp Hiển học ngôn ngữ Sanskrit trong suốt thời gian 3
năm tại Paa.taliputa và Ngài đã phát hiện nhiều bản sao chép từ những
thánh điển về giới luật của nhiều trường phái khác nhau.(11) Ngài vui
mừng vô cùng khi được những bản sao này. Kế đó, Ngài cung cấp thêm tư
liệu về buổi lễ diễn hành hình tượng rực rỡ vào ngày 8 tháng 2 tại
kinh đô Pàt.aliputra. Ngài viết: “Được sự ngưỡng mộ nồng nhiệt của
đông đảo quần chúng, lễ diễn hành tượng
Phật lộng lẫy được chở trên 20 chiếc xe ngựa lớn, sặc sỡ, cùng với
các ca kỹ và nhạc công hàng năm, vào ngày 8 tháng 2.” Và Ngài kể thêm rằng:
“Những buổi lễ diễn hành tương tự thường được tổ chức ở nhiều
vùng khác nhau trong nước.”(12) Những người hành hương Trung Hoa còn đề
cập đến 4 điện Phật được trang trí 4 phía kinh đô Pàt.aliputra. Mỗi
bên gồm có một tượng Phật ngồi và một tượng Bồ-tát đứng.(13)
Ngài
Pháp Hiển còn cung cấp cho chúng ta một sử liệu về một vài Tu viện
phía Bắc Ấn Độ. Ngài kể lại rằng:
“Trên đoạn đường khoảng 500 dặm từ Indus (sông Ấn ) tới thành phố
Mathuraa thuộc xứ Jumnaa, ngài Pháp Hiển đã viếng thăm nhiều Tu viện Phật
giáo có hàng ngàn Tăng sĩ đang tu tập,
và trong thành phố lân cận Mathuraa, Ngài tìm thấy 20 Tu viện, trong các Tu
viện này có khoảng 3000 vị Tăng cư ngụ. Phật giáo trong vùng này được
ủng hộ đang phát triển mạnh.(14)
Ngài Pháp Hiển đưa ra nhiều sử liệu có liên quan đến
chính quyền của vua Chandragupta II. Từ sử liệu của ngài Pháp Hiển,
chúng ta thấy rằng không có người nào phạm giới sát sanh, uống rượu
hay dùng tỏi, hành. Không có ai nuôi lợn hoặc gà, vịt và cũng không có một
cửa tiệm thịt nào hay những người làm nghề đồ tể ở những nơi chợ
búa.(15) Dựa trên sử ký của ngài Pháp Hiển, chúng ta có thể kết luận
rằng, Phật giáo rất thịnh hành trong vương
quốc của vua Chandragupta II.
Căn cứ theo sử ký của Ngài
Huyền Trang, một vài bằng chứng rõ ràng liên quan đến tầm quan trọng của
Phật giáo trong vương quốc vua Gupta. Ngài cho biết tên của vua ‘Sakraaditya,(16)
mà theo các nhà nghiên cứu, ông chính là vua Puragupt Vikrama Prakaa’sadity,
anh ruột của vua Skandagupta. Vua này là người ủng hộ Phật giáo rất đắc lực. Ông kính tin
Tam Bảo, tức là, Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo và đã xây dựng một
Tu viện tại Nàlandà. Narasi.mhagupta Baalaaditya, là vua kế vị thuộc triều đại Gupta, sau vua
Purugupta và có công rất lớn trong việc đóng góp vào tiến trình phát triển Phật giáo trong vương quốc của ông. Đối với Phật giáo, nhà vua đã tỏ
ra thiện cảm sâu sắc trong việc xây dựng tại Nàlandà thuộc thủ phủ của
Ma-kiệt-đà (Maghadha), một trung tâm nghiên cứu Phật giáo ở phía Bắc Ấn Độ và một ngôi Chùa bằng gạch có độ
cao hơn 300 feet=91,44m (1 feet =0,3048m). Theo Ngài Huyền Trang, điểm đáng kể
nhất của ngôi Chùa này là được trang trí một cách khéo léo
và sử dụng rất nhiều loại đá quý và vàng trong các thứ
đồ đạc của Chùa.(17) So với kích thước của ngôi Chùa, vẻ đồ sộ,
nguy nga và tượng Phật, ngôi Chùa trông có vẻ là một đại Tu viện gần
nơi cây Bồ-đề.(18) Ngài Huyền Trang
(19) còn mô tả rằng để chuẩn bị cho việc khánh thành ngôi Chùa này, vua Baalaaditya thỉnh rất nhiều
Tăng sĩ Phật giáo ở khắp nơi. Hai vị Tăng sĩ người Trung Hoa cũng đến
đó để tham dự lễ khánh thành này. Nhưng khi đức vua đến để yết kiến,
thì họ đã bí mật biến mất. Vua rất bối rối trước sự kiện này đến
nỗi ông đã gia nhập vào Tăng đoàn
làm Tăng sĩ. Vì tuổi tác lớn, nên
nhà vua được đề cử giữ một vị trí quan trọng trong Tăng đoàn.
Tathaagataraaja-Vainyagupta,
một người con khác của vua Purugupta, là người ủng hộ rất đắc lực
cho Phật giáo. Ngài Huyền Trang đề cập tới một Tu viện do vị vua này xây dựng
tại Nàlandà.(20) Ngài còn kể rằng, Vajra, người con của vua
Nurasi.mhagupta-Baalaaditya ủng hộ trong
việc xây dựng một ngôi Chùa tại Nàlandà.(21) Có lẽ, điều được nói
thêm ở đây là các vị vua triều đại
Gupta chính là những Hộ pháp đắc lực về học thuật, họ cũng ủng hộ
hết mình và có những đóng góp giá trị vào công cuộc phát triển của
các Tu viện của Phật giáo như Nàlandà, Taxila … . Ngài Pháp Hiển kể lại:
“Nhiều vua từ nhiều nước khác nhau và những vị trưởng làng thuộc người
Vai’sya đã xây dựng nhiều Tịnh xá (Vihara) cho các Tu sĩ Phật giáo tu tập và còn cúng dường cho
họ ruộng đất, nhà cửa, vườn tược và nhiều vườn cây ăn trái cùng
với những người cư dân thường trú tại đó và cả gia súc của họ. Những
sự cúng dường này đã được khắc vào nhiều đĩa bằng kim loại.”(22)
Ngài Huyền Trang mô tả như sau: “Ngay sau khi Đức Phật tịch diệt, ‘Sakraaditya,
vị vua trước của xứ này, kính mộ Phật giáo Đại thừa (one vehicle) và
tôn kính Ba Ngôi Báu đã xây dựng một Tu viện. Buddhagupta, con trai của vua
là người nối ngôi đã tiếp tục thiện sự của cha mình. Nhà vua còn cho
xây dựng một Tu viện khác về hướng Nam của Tu viện; và hướng Đông,
vua Tathaagatagupta lại cho xây một Tu
viện thứ 3; và hướng Đông-Bắc, vua Baalaaditya
xây dựng Tu viện thứ 4.”(23) Ngài còn mô tả trong ký sự của Ngài rằng:
“Vajra, người con của vua này, sau khi nối ngôi, ông lại xây dựng một
Tu viện khác và sau đó một vị vua ở miền Trung Ấn Độ lại tiếp tục xây dựng thêm một Tu viện lớn nữa thuộc hướng Bắc của vùng này.(24) Ngài
Pháp Hiển kể: “Khi các vua cúng dường
cho Tăng đoàn, họ đã cởi bỏ tất cả áo mão cân đai của họ và
cùng với hoàng tộc, các
quan đại thần nâng các phẩm vật trên hai tay. Sau khi cúng dường xong, đích
thân vua tự trải tấm thảm trên thềm và quỳ xuống trước vị Thầy trụ
trì để tác bạch; họ không dám tự ý ngồi trên ghế trước Tăng chúng.”(25)
Các sử
liệu của những nhà hành hương Trung Hoa chỉ cho chúng ta thấy rõ tầm
quan trọng của nhiều trung tâm Phật giáo lớn như Pàtaliputa, Mathurà,
Sàrnàth, ‘Bodh Gayàø và Nàlandà trong suốt thời gian thống trị của triều
đại Gupta. Cùng với sự phát triển của Phật giáo, những hoạt động về văn học cũng bắt đầu phát triển dưới
sự hỗ trợ đắc lực của các vua Gupta. Chúng ta thấy rằng trong khoảng
thời gian đó, một số lượng lớn về những trước tác Pàli và Sanskrit
đã được nhiều nhà học giả soạn thảo và cũng trong giai đoạn đó, tư
tưởng của Phật giáo và các ý tưởng triết học thuộc Phật giáo Tiểu
thừa và Đại thừa phát triển. Ngài Vô Trước (Asa.nga), ngài Thế Thân
(Vasubandhu), ngài Trần Na (Dinnàga) và ngài Bhavaviveka quả là những học giả
nổi bật nhất. Những trước tác văn học của các Ngài không những làm
phong phú cho nền văn-triết học Phật giáo bằng
ngôn ngữ Sanskrit (26), mà còn tạo một dấu hằn trong lĩnh vực văn học vào thế kỷ IV, V,
& VI TL.(27) Chúng ta nên biết rằng, trong thời gian này, người Trung Hoa
đã hết sức quan tâm về hoạt động văn học của các học giả Phật
giáo và để làm phong phú nền Phật
học tại nước của họ, người Trung Hoa đã dịch nhiều Kinh, Luật, Luận,
và những bản sớ giải sang ngôn ngữ riêng của họ.(28) Các Ngài như Pháp
Hiển, Buddhabhadra, Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), Chân Đế (Paramartha),
Dharmaksema… đã đóng góp cho tiến trình phát triển văn học Phật giáo bằng
sự truyền giáo, trước tác, và các hoạt động văn học của các
Ngài.(29)
Jiivitagupta I và AAdityasena là những
vua hậu Gupta đã ủng hộ cho việc đẩy mạnh sự phát triển của Phật
giáo trong vương quốc. Dưới triều đại của vua Jiivitagupta, một hội
truyền giáo Phật giáo của Trung Hoa đã đến vương triều của ông. Điều
đó chứng tỏ rằng Phật giáo rất hưng thịnh trong vương quốc của ông
và vai trò quan trọng của vị vua này. Vua Lương Võ Đế hay còn gọi Hiếu
Văn (Hsiao-yen), là vua nhà Lương đầu tiên của Trung Hoa và cũng là người
rất ngưỡng mộ Phật giáo. Vào năm thứ 539 TL, để thực hiện việc sưu
tập nhiều nguyên tác thuộc kinh điển Đại thừa và để thúc
đẩy việc giúp đỡ cho nhiều học giả trong công tác dịch thuật, nhà
vua đã phái một hội truyền giáo đến triều đình của vua hậu Gupta, vị
vua này đã vui vẻ đón tiếp khách ngoại quốc và yêu cầu ngài
Pathamaartha giúp đỡ họ trong vấn đề
này.(30) Chính vì sự kiện đó, Ma-kiệt-đàø
(Magadha) đã trở thành những trung
tâm học thuật của Phật giáo trong thời kỳ Hậu Gupta.
Adityasena là vị
vua hùng cường nhất của triều đại hậu Gupta.(31) Từ những sử ký của
Hwui-Li, chúng ta biết được Adityasena là một tín đồ Phật giáo, chính những
sự đóng góp đáng kể của ông, nên ông đã có một vị trí nổi bật
trong lịch sử Phật giáo thuộc triều đại hậu Gupta. Hwui-li kể rằng:
“Vua Adityasena đã xây dựng một
ngôi Chùa khác bên cạnh ngôi Chùa cũ
mà bây giờ mới hoàn thành. Nhiều vị Tu sĩ
từ miền Nam đã coi giữ ngôi Chùa này.”(32) Hwui-li còn nói
thêm rằng ngôi Chùa Tohina Trung Hoa do
vua Mahàràja, còn được gọi là ‘Srìgupta xây dựng.(33) Nhưng khu đất này
hiện nay được chuyển giao cho vua thuộc miền Đông Ấn Độ, tước hiệu của ông là Devavarmaa,
nhưng người ta nói rằng ông muốn giao lại khu đất Chùa và hiến cúng
trong trường hợp bất kỳ vị Tăng sĩ Trung Hoa nào đến.(34) Ông
R.C.Majumdar đã cho rằng vua Devavarmaa cũng là vua Devakha.dga thuộc miền Đông
xứ Bengal và cũng là người cùng thời với ngài Hwui-li.(35) Nhưng
Radha-Govinda-Basak lại nghĩ rằng vua Devavarmaa chính là vua Devagupta III, con của
vua Adityasena, (36) là vua trị vì phía Đông Ấn Độ khi Ngài Hwui-li viếng
thăm vùng đất này. Dường như, vị vua này là một Tín đồ thuần thành
của Phật giáo.
Chú
thích và tài liệu tham khảo:
(1) Political History of Ancient
India, H.C. Raychaudhuri, 528-29; History of North-Eastern India, R.G.Basak, 6; IA, X,
1881, 109 ff; JRASGBNS, XIII, II, 1882, 570 ff; Sen, 131.
(2) CCGD, XV-XVI; Political
History of Ancient India, H.C. Raychaudhuri, 529.
(3) Hwui Li, 36-37, Saletore,
514.
(4) Sen, 162.
(5) Hwui Li, 113-14.
(6) MV, XXXIX; IA, XXXI, 1902,
192-97; JAI, XV, 1908, 316-17; Political History of Ancient India, H.C. Raychaudhuri, 548;
Sen, 166-67.
(7) Beal, II, 133-35.
(8) IA, XV, 1886, 359.
(9) Legge, 79.
(10)Early History
of India, V.A. Smith, 312.
(11)Ibid., 312.
(12)Ibid., 312;
TFS, ch. XXVII.
(13)Legge, 60-61;
EHNI, 172.
(14)Early History
of India, V.A. Smith, 313.
(15)Ibid., 314;
TFS, 322-96.
(16)Watters, II,
164; Beal, II, 168.
(17)Watters, II,
170; Beal, II, 173; Early History of India, V.A. Smith, , 329.
(18)Watters, II,
170; Beal, II, 173.
(19)Watters, II,
164; Beal, II, 168.
(20)Watters, II,
164; Beal, II, 168.
(21)Watters, II,
164; Beal, II, 170.
(22)Legge, 44.
(23)Watters, II,
164-65; Beal, II, 170.
(24)Watters, II,
164-65; Beal, II, 170.
(25)Legge, 42.
(26)Studies in
the Buddhistic Culture of India, L.M. Joshi., 9.
(27)Ibid.
(28)Ibid.
(29)Ibid.
(30)Early History
of India, V.A. Smith, 331.
(31)Ibid., 332.
(32)Hwui Li, 36.
(33)Ibid.
(34)Hwui Li,
36-37.
(35)History of
North-Eastern India, R.G.Basak, 23; Sen, 176.
(36)History of
North-Eastern India, R.G.Basak, 153-54.
(Trích dịch từ
nguyên tác “Buddhism under the Guptas and Later Gupta” (chapter 6) trong tác phẩm
The Rise and Decline of Buddhism in India của Kanai-Lal-Hazra (Delhi, Munshiram Manoharlal
Publishers Pvt. Ltd 1998, pp. 77-81)
Dharamsala, ngày
30 tháng 10 năm 2001
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nuoc/PG_thoi_Gupta.htm