Nước Lào nằm ở giữa lòng bán đảo Đông Dương, trong khu vực Đông Nam Á,
thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có đường biên giới chung với nước: Việt
Nam, Kampuchia, Myanma, Thái Lan và Trung Quốc. Lào không có đường biên
giới biển. Lào có diện tích 236,800km2, 85% lãnh thổ toàn là núi non
trùng điệp với độ cao từ 1,500m -2,500m. Dân số Lào hiện nay (2002) là
4,900,000 người, được phân làm nhiều sắc dân: Lào Lùn (chiến 56%), Lào
Thỏng (chiếm 34%) và Lào Sủng (chiếm 9%).
Hầu hết nhân dân Lào theo đạo Phật. Phật Giáo trở thành quốc giáo của họ.
Ở Lào, Phật Giáo giữ vị trí quốc giáo từ nhiều thế kỷ nay. Phật Giáo
có ảnh hưởng đến viẹc hình thành tính cách dân tộc, nhân sinh của người
Lào. Tín ngưỡng dân gian của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á vẫn còn được
nhiều bộ tộc giữ gìn. Tôn giáo Thiên Chúa đa số là ngoại kiều.
Năm 1349-1357, vua Phà Ngừm thống nhất nước Lào, đặt tên là Lạn Xạng (nghĩa
là "đất nước triệu voi", có thủ đô là Xiêng Dong Xiêng Thong (ngày
nay là Luang Prabang). Từ năm 1479 đến 1570, nhân dân lào phải chống
lại giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Năm 1560, thủ đô được chuyển đến
Vientiane.
Vào thế kỷ XVII, đất nước Lào phát triển và rạng danh với các nước láng
giềng. Năm 1893, thực dân Pháp thôn tính Lào. Ngày 19-12-1945, Lào trở
thành quốc gia độc lập. Ðầu năm 1946, Pháp quay lại xâm lược nước Lào.
Tháng 7-1954, Pháp ký hiệp định Genève công nhận nền độc lập của Lào.
Phật Giáo du nhập
Người Lào có nguồn gốc từ biên giới tây nam Trung Quốc, từ khi người Nam
Chiếu hưng khởi vào đời Đường đến khi Đại Lý bị Mông Cổ tiêu diệt. Vùng
nầy chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá Trung Quốc, đồng thời chịu ảnh hưởng
văn hoá Đông Nam Á Ấn Độ hóa. Phật Giáo thịnh hành ở đây trong giai đoạn
sơ khởi là loại tín ngưỡng Phật Giáo hỗn hợp văn hoá Trung Quốc lẫn Ấn
Độ, đồng thời mang ảnh hưởng tín ngưỡng bản địa.
Theo tập tục dân gian, người Lào thời cổ thờ phụng thần linh, gia tiên,
thờ vong hồn và thế giới thiên nhiên. Thời đó, Phật Giáo chỉ là tín
ngưỡng của thiểu số. Lịch sử Lào ghi chép Phật Giáo du nhập từ đời vua Phà
Ngừm (1349).
Đất đai của nước Lào trong thời bấy giờ bao gồm toàn bộ Bắc Lào và Trung
Lào hiện nay, cộng thêm đất Chiêng May của Thái Lan và miền đông bắc
Miến Điện, đã giúp cho Lào trở thành một quốc gia khá hùng mạnh trong
thời bấy giờ. Sau khi vua Phà Ngừm dựng nước, chế độ chính trị phần nhiểu
mô phỏng theo vương triều Khmer của Kampuchia, đặt ra quyền trung ương
tập quyền. Do đó, Phật Giáo của Kampuchia cũng bắt đầu du nhập vào Lào.
Lịch sử ghi lại
rằng: Vua Phà Ngừm kết hôn với Kiều Lạc, công chúa Kampuchia, lại là
một tín đồ Phật Giáo thuần thành. Khi sang Lào, bà thấy dân chúng thời
đó sùng bái quỷ thần, mê tín dị đoan, thường hay hiến tế bằng phụ nữ,
cho nên bà khuyên nhà vua nên can thiệp để đưa Phật Giáo vào, để có thể
giúp dân chúng thay đổi tín ngưỡng. Bằng không, sẽ không thể lưu lại lâu
dài được. Vua Phà Ngừm nghe theo.
Công chúa Kiều lạc
chính là động lực thúc đẩy việc xin du nhập Phật Giáo vậy. Nhiều cao
tăng được cung thỉnh sang hoằng dương Phật Pháp. Vị Tăng thống Maha
Bansamanda và 2 vị trưởng lão ở Tu viện Maha Devanlanka dẫn 30 vị tỳ
kheo sang Lào để tổ chức công việc truyền thừa giáo lý. Ngoài ra có thêm
3 vị học giả tinh thông Phật Pháp là Manrasinha, Manramad và Manrasad đưa
sang Tam tạng Thánh Điển để phiên dịch ra tiếng Lào để truyền bá sâu rộng.
Nhiều Tu viện được thành lập trong bước đầu nầy. Tiếp theo, lại thêm
nhiều pho tượng Phật, thánh điển, học giả,cao tăng tiếp tục được đưa
sang Lào.
Theo sử liệu, vua Phà Ngừm là người hung bạo, tham quyền cố vị, nhưng
đến khi kết hôn với công chùa Kiều Lạc thì đã chịu ảnh hưởng tư tưởng
từ bi của nàng, dần dà thay đổi thái độ và cũng đã hết lòng trong việc du
nhập tôn giáo nầy. Quốc Vương và Hoàng Hậu đã cho xây cất chùa
Pasamanerama ở phía bắc Hoàng cung để các cao tăng cư ngụ, thuyết pháp
cho hoàng thân quốc thích và quan lại trong triều. Ngôi chùa nầy qua
nhiều lần trùng tu nay vẫn còn dù trải qua 7 thế kỷ vừa qua. Dân
chúng Lào cũng đã chuyển sang tin Phật.
Phật Giáo
Lào thời kỳ Trung đại
Năm 1373, vua Pha Ngửm qua đời, con trai lên nối ngôi là Praya Xảm Xẻn
Thay. Dưới thời nầy, chế độ chính trị bền vững, kinh tế phồn thịnh. Nhà
vua cho xây dựng nhiều chùa chiền khắp nơi, tổ chức tăng hội nghiên cứu
kinh điển Phật Giáo. Nhiều công trình kiến trúc, điêu khắc được thực
hiện, nổi tiếng nhất là pho tượng Phật tại chùa Wat Manorom, vào năm 1372.
Đến đời vua Vixunharat (1501-1520), nhiều công trình kiến trúc Phật
Giáo khác được xây dựng. Trong số đó, nổi tiếng nhất là chùa Vixun (1503)
để thờ Xá lợi của đức Phật Thích Ca. Quốc vương nầy là một tín đồ Phật
Giáo thuần thành, chống đối những lối bùa chú, vu thuật và tín đồ của Linh
hồn luận (Animism). Khi vua Photisanarat lên ngôi (1540), kinh đô
được dời về Vientiane. Nhà vua sai xây dựng nhiều chùa chiền ở kinh đô
mới; ngôi chùa Phật Ngọc (Wat Phra Keo) nổi tiếng được kiến tạo trong
thời nầy. Ngôi chùa gồm ba tầng, kiến trúc theo phong cách Ấn, Phật đàn
rộng lớn. (Khi nước Thái đến tấn công và cướp phá đã cướp đi những pho
tượng bằng ngọc trong ngôi chùa nầy).
Năm 1566, nhà vua lại còn xây Tháp Luông lịch sử, phía bắc Vientiane chừng
2km . Toà tháp nầy dựa trên nền móng của toà tháp cũ, nhưng được mở rộng
thêm lên đến 340 mẫu; tháp hình vuông, gồm 3 tầng, chiều đông tây 60m,
chiều nam bắc 59m.
That Luông là một công trình đồ sộ gồm một tháp lớn hình quả bầu, đặt trên
một cái đế là một đài sen hình vuông với những cánh sen nở tung ra bốn
phiá, bên dưới là một cái bệ khổng lồ hình bán cầu, nhưng lại tạo thành
bốn múi có đáy vuông.
Trên miệng quả bầu đỡ một ngọn tháp, chóp nhọn của ngọn tháp được dát
vàng và bốn mặt cong của tháp thì được quét sơn trắng xoá, trông ngọn
tháp rất rực rỡ. Tất cả nằm trên một nền cao ba bậc, có tường bao
chung quanh. Ngoài cùng là một đường hành lang có mái, giới hạn cho
khuôn viên vuông vức và rộng lớn của That Luông với bốn cửa vào nằm
chính giữa mỗi mặt.
Tháp chính hình quả bầu không phải đứng một mình, mà đứng giữa một khu
có 30 tháp nhỏ bao chung quanh. Các tháp nhỏ nầy có hình dáng tương tự
như ngọn tháp ở giữa, đỉnh các tháp nhỏ cũng được dát vàng và thân tháp
quét sơn trắng. Tuy kích thước của các tháp đều gần bằng nhau, nhưng
bốn tháp ở bốn góc có bệ cao hơn nên nhô cao hơn một chút so với các
tháp nhỏ bên cạnh.
Ở mặt chính của các tháp nhỏ có ghi một câu kệ Phật Giáo, viết bằng
tiếng Pali. That Luông cũng như các tháp Phật Giáo ở các nơi khác, là
hình ảnh tượng trưng cho hình núi vũ trụ Tu Di (Meru): đỉnh trung tâm là
Núi Thần Meru; các tháp nhỏ bao quanh là các vòng núi; những bậc tam cấp
hình thủy quái Makara và rắn Naga biểu trưng cho nước của Đại Dương.
Theo quan niệm của Phật Giáo Tiểu Thừa mà người Lào tôn thờ, thì chỉ có
một đức Phật duy nhất trên cõi Niết Bàn (chứng quả ở tháp chính hay trên
ngọn Núi Thần Meru; những nhà tu hành chứng quả cũng chỉ đạt đến A La
Hán (Arahat) (chứng quả ở các tháp nhỏ có ghi câu kệ Ba La Mật). Ba vòng
hồi lang là hình ảnh tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) mà những
người tu hành phải trải qua.
Năm 1569, Miến Điện đem quân sang xâm chiếm nước Lào, bắt nước nầy
phải chịu thần phục, nhưng chính Miến Điện cũng không ổn định, cho nên
phải rút về. Suốt 50 năm sau đó, nước nầy rơi vào tình trạng vô chính
phủ.
Cho đến năm 1637, vua Soulina Vongxa lên ngôi, chỉnh đốn lại quốc gia.
Nhà vua ổn định chính trị coi trọng tôn giáo mở những trung tâm nghiên
cứu Phật Giáo quan trọng; nước Lào trở thành trung tâm Phật Giáo ở Đông
Nam Á hồi đó. Không ít tăng ni ở Thái Lan và Kampuchia sang Vientiane
nghiên cứu Phật Giáo.
Jean Marie Leria và Henry Van Wusthf sang Lào hồi đó, đã viết: "Nước
Lào phát triển Phật Giáo rất cao dưới triều đình vua Soulina Vong Xa,
nhiều công trình kiến trúc trác việt của những chùa tháp nơi đây rất
đặc sắc. Có người thử đưa Thiên Chúa Giáo vào đất Lào, nhưng bị các tín
đồ Phật Giáo phản đối, nên không thành công" (trích Lữ Hành Ký).
Vào thế kỷ XIX, Lào bị ngoại xâm, trước là Miến Điện, sau là Thái Lan.
Miến Điện đánh chiếm Luang Prabang, cướp bóc vàng bạc, châu báu, kể cả
tượng Phật, sách Phật. Lào phải liên minh với Thái để chống trả. Nhưng
rồi lại bị Thái trở mặt. Quân Thái Lan đánh chiếm Vientiane năm 1828,
tàn phá 6,000 ngôi nhà, triệt hạ chùa chiền.
Cuộc xâm lăng nầy kéo dài cho đến 1893, thì Pháp tấn công, đặt nền đô hộ
3 nước Đông Dương.
Thời kỳ cận
đại và hiện đại
Dưới chế độ thống trị của Pháp, các mặt kinh tế, chính trị đều bị Pháp
khống chế, các mặt văn hoá, giáo dục, tôn giáo đều không được coi trọng.
Tuy nhiên, trong truyền thống dân tộc, tuyệt đại đa số nhân dân Lào đều
theo Phật Giáo, nên vẫn duy trì tinh thần tín ngưỡng trong dân gian.
Phương thức giáo dục của người Lào đặt trên cơ sở Phật Giáo; nhà chùa là
trường học, sư trụ trì ở chùa là hiệu trưởng, sư tăng là giáo viên,
chuyên giảng giáo lý cho giới thiếu niên nầy. Chính người Pháp cũng không
thể nào ngăn cấm được truyền thống giáo dục nầy.
Phong tục của người Lào cũng như Thái Lan và Miến Điện,
Kampuchia, trong lứa tuổi thanh thiếu niên, tất cả nam giới, không kể
thuộc quý tộc hay bình dân đều phải đến chùa làm sa di hay tỳ kheo để
theo giới luật và nghiên cứu Phật học. Thời gian xuất gia dài, ngắn, hoặc
suốt đời đều do từng cá nhân tự nguyện. Một người xuất gia ở chùa trong
thời kỳ nầy, thì gia đình được tín đồ trong vùng giúp đỡ.
Năm 1954, Lào được độc lập, nhưng chính
trị và quân sự ở trong tình trạng chia cắt, chủ yếu là 3 thế lực: phái
Hữu, phái Tả và phái Trung Lập.
Năm 1961, Hiến Pháp Lào ban hành. Điều 7 của Hiến Pháp nêu rõ: "Phật
Giáo là quốc giáo; quốc vương là người bảo hộ cao nhất".
Điều 8 của Hiến Pháp ghi rằng: "Quốc vương phải là tín đồ Phật
Giáo nhiệt thành". Những điều khoản khác, ít nhiều đều theo tinh
thần đó. Nhân dân Lào đều là tín đồ Phật Giáo nhiệt thành; chỉ có một bộ
phận dân tộc ít người mới theo đạo Thiên Chúa, đạo Cơ Đốc hay Khổng
Giáo. Người Khả thờ đạo Tổ Tiên, người Mèo thờ vật linh, một ít
người Thái thờ cúng quỷ thần.
Bộ Tôn Giáo trực thuộc Quốc Vụ Viện phụ trách quản lý tôn giáo. Bộ
trưởng phải là Phật tử thuần thành.Cho đến giữa thế kỷ XIX, vua Lào
đứng trước nguy cơ suy thoái trầm trọng; phần thì bị Thái Lan khống chế;
mặt khác bị Pháp xâm lăng. Hoà ước 1884 thừa nhận quyền bảo hộ của
người Pháp.
Trong thời gian bị đô hộ Pháp, có nhiều phong trào kháng chiến của
dân chúng Lào, kể cả cuộc tranh đấu giành độc lập của tín đồ Phật
Giáo, nhưng bị Pháp giẹp yên. Một trong những lãnh tụ tranh đấu là vị
cao tăng A Tra Hãn Cưu bị Pháp bắt và bị đày ải.
Cuộc xâm lăng Pháp kéo dài từ 1884 đến 1940 thì bị quân Nhật lật đổ.
Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại Lào nắm quyền. Phong trào tranh
đấu giành độc lập kéo dài từ năm 1947 đến năm 1954, Hiệp định Genève
(có liên quan đến Kampuchia) ký kết, Pháp công nhận chủ quyền độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Lào.Phật Giáo Lào trong thời kỳ cận
đại do chịu ảnh hưởng của nền cai trị của Pháp cho nên không được coi
trọng.
Tuy nhiên, văn hoá Phật Giáo và văn hoá truyền thống của dân tộc nầy
đã được ăn sâu vào quần chúng, cho nên vẫn được truyền bá trong cả nước.
Chế độ giáo dục Lào quy định: Trường học được hướng dẫn do các sư sãi,
nhà sư đóng vai trò chỉ đạo trong giáo dục. Chùa chiền vẫn được kiến
lập khắp nơi.
Ngay trong chế độ giáo dục hiện nay, cũng còn có nhiều trường học do
chùa chiền đảm trách việc hướng dẫn và bảo quản; tại nông thôn, nhà sư
còn kiêm nhiệm thầy giáo làng. Năm 1914, tại thủ đô Luang Prabang đã
xây dựng Trường dạy Pali cao cấp (Pali High School), tiến hành dạy cho
thanh niên xuất gia trong vòng 4 năm; đồng thời, còn quan tâm đến việc
truyền thụ kiến thức hiện đại về văn hoá mới.
Về sau, ngôi trường nầy được đổi thành Học viện (College) và chỉnh đốn
hoàn mỹ, hệ thống cao cấp hơn trước. Năm 1933, thành lập những trước dạy
Pali sơ cấp nhiều đô thị khác, có đến 400 ngôi trường theo kiểu mẫu đó.
Trường Đại Học Phật Giáo (Buddhist University) được thành lập năm
1955 (Preah Siharu Raja).Năm 1925, chính phủ cho xây dựng Thư Viện
Hoàng Gia tại Luang Prabang, tập trung nhiều tư liệu quý giá Phật Giáo
nhiều nước, đồng thời vạch ra kế hoạch chỉ đạo Phật Giáo. Năm 1930,
thành lập Viện Nghiên Cứu Phật Giáo (Buddhist Institute).
Năm 1932, lại lập ra "Tam tạng Ủy Viên Hội" (Tripitaka Board) do Chính
phủ chỉ định, bao gồm nhiều học giả Phật Học nổi tiếng, để biên soạn và
ấn hành kinh điển Phật Giáo bằng tiếng Pali và tiếng Lào. Tổng số kinh
sách lên đến 110 bộ.
Hiện nay tăng đoàn Kampuchia được phân chia ra làm 2 tông phái: Đại
tông phái (Mahanikaya) và Pháp tông phái (Thammajutnika). Theo thống kê
năm 1957, cả nước có 1,800 ngôi chùa và 22,000 vị Tỳ kheo thọ giới.
Đại tông phái truyền thống chiếm 94% số chùa, 90% số sư sãi. Tông
phái nầy từ Thái Lan truyền sang vào thế kỷ XIV. Pháp tông phái vốn do
nhà vua Mongkuk (Rama IV) của Vương triều Bangkok (Thái Lan) khi nhà
vua chưa lên ngôi.
Phái nầy chủ trương cải cách Phật Giáo, chủ trương bảo vệ giới luật
nghiêm túc, do các cao tăng điều hành. Sư tăng của phái nầy tuy hạn chế,
nhưng phần lớn là các quý tộc xuất gia, nhiều nhà trí thức, được Hoàng
gia ủng hộ. Theo thống kê hiện nay, trong nước có đến 85% dân chúng
theo Phật Giáo.
Hiến pháp mới có quy định: "Phật Giáo là quốc giáo", và "Bảo vệ
quyền tự do tín ngưỡng". Quốc vương tượng trưng cho quyền lực bảo vệ
Phật Giáo. Đại đa số thanh niên trong cả nước đều cần phải xuất gia 1
lần (4 năm) để tiếp thu sự giáo huấn của Phật Giáo. Ngay cả nhà vua
cũng có một thời gian từ bỏ ngôi vua để xuất gia.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/