1. Chùa Việt Nam, nơi hội ngộ loài chim quý
Chim Hồng Hạc Ảnh: Tâm Bửu
Khoảng 9 giờ sáng, trên đường đến vườn Lâm Tỳ Ni, đoàn chúng tôi có
viếng thăm Việt Nam Phật Quốc Tự, ngôi chùa Việt Nam, chùa quốc tế đầu
tiên trên đất Phật thuộc Nepal, do hòa
thượng Huyền Diệu sáng lập. Hòa thượng là một tu sĩ Việt Nam đầu tiên
kêu gọi Phật giáo các nước khôi phục lại thánh tích Phật giáo ở
Nepal và Ấn Độ trong thời cận đại. May
mắn thay, tại ngôi chùa này, lần đầu tiên tôi gặp được vài con chim hồng
hạc đang đi trong khuôn viên chùa. Trước kia tôi chỉ biết được loài chim
này qua tác phẩm Khi Hồng Hạc Bay Về, tác giả Người Làm Vườn, tức
bút danh của hòa thượng Huyền Diệu. Sau đó, vào năm 2005 tôi có dịp
chiêm bái đất Phật một lần, kính viếng hòa thượng nhưng cũng không có cơ
hội gặp loài chim quý hiếm này. Hôm nay, tại khuôn viên chùa chúng tôi
nhận thấy có khoảng ba con hồng hạc đang đi lang thang trong ao nước
cạn. Không thể bỏ qua cơ hội, chúng tôi ghi một vài hình ảnh thực về
loài chim này. Chúng cao khoảng 1,6m, chân khẳng khiu như cò, nhưng lớn
gấp trăm lần cò, cổ cũng vậy. Đặc biệt là vùng cổ có viền đỏ, vì vậy mọi
người gọi chim này là chim hồng hạc (chim hạc cổ đỏ). Chúng rất dạn dĩ,
hiền lành, không thấy sợ người, chắc quen ở chùa có nhiều khách hành
hương thăm viếng và ngắm nhìn chúng. Nó cũng có những vũ điệu đặc trưng
như loài chim công hay những loại chim khác. Khi chúng tôi đến
thấy chúng dạo những vũ khúc rất tự
nhiên, rất sinh động. Chúng thích đời sống ẩm ướt, cho nên trong khuôn
viên chùa có vũng nước to, cạn để dành riêng cho chúng sinh hoạt hàng
ngày. Sau khi quan sát và ghi hình lưu niệm, đoàn chúng tôi vào bên
trong lễ Phật, tham quan quanh khu vực chùa và tiếp tục lên đường đến
vườn Lâm Tỳ Ni, cách chùa khoảng 3km.
2. Vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Phật đản
sanh
Quang cảnh vườn Lâm Tỳ Ni Ảnh: Sưu tầm
Lâm Tỳ Ni là một trong bốn thánh tích được xem
như quan trọng nhất của Phật giáo, gọi
là tứ động tâm. Tứ động tâm gồm: Lâm Tỳ Ni thuộc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu),
Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) thuộc Ma
Kiệt Đà (Magadha), Lộc Uyển nơi chuyển
pháp luân xứ Ba La Nại (Benares), và
Câu Thi Na (Kushinagar) thuộc cộng hòa
Malla (bang Bihar ngày nay), nơi đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn. Bốn thánh
tích trọng đại này được cô đọng trong bốn câu rất dễ nhớ:
“Đản sanh Ca Tỳ
La
Thành đạo Ma
Kiệt Đà
Thuyết pháp Ba
La Nại
Niết Bàn Câu Thi
Na”.
Lâm Tỳ Ni, phạn
ngữ là Lumbini, xưa kia là khu vườn
xinh đẹp của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hiện nay vị trí khu vườn này nằm
trên phần đất của Nepal, tiếp giáp
biên giới, chỉ cách Ấn Độ khoảng 30 Km. Lâm Tỳ Ni , nơi đản sinh một Đức
Phật, nằm dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn, các sách thường ghi cách thành Ca
Tỳ La Vệ cũ khoảng 15 km, rất có thể là đường chim bay, trên thực tế
phải đi vòng bằng đường lộ nhựa khoảng 40km.
Theo phong tục
Ấn Độ, người con gái sắp đến ngày sinh nở phải trở về quê mẹ, hoàng hậu
Ma Da cũng không ngoại lệ. Trên đoạn đường về quê, khi ngang qua khu
vườn Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy tâm trạng thư thái nhẹ nhàng, niềm vui lâng
lâng khó tả giữa những tiếng chim đủ loại reo hót trên các cành cây như
đón chào bà, một thánh mẫu đang mang thánh thai. Ánh bình minh tỏ rạng,
những tia nắng hồng ban mai xuyên qua các cành cây cổ thụ để lại những
vệt sáng dài trên cỏ, làm long lanh những giọt sương dường như còn đang
say ngủ trong buổi sáng êm ả đẹp trời. Trong lúc đang say sưa ngắm nhìn
cảnh vật quanh khu vườn, giữa bao kì hoa dị thảo, bỗng nhiên bà cảm thấy
nhiệm vụ thiêng liêng của người mẹ bắt đầu xảy ra và phải xảy ra tại nơi
này. Bà liền với tay nắm cành cây vô ưu để vững vàng trong giây phút
chuyển dạ đột ngột. Bà liền cho thị nữ căng màng, trải một nơi nằm tạm
thời cho giờ phút thiêng liêng, sự chờ đợi nức lòng của cả chư thiên và
loài người, hay đúng hơn chính là sự mong mỏi của vua Tịnh Phạn và toàn
dân kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Bà hạ sinh một hoàng nam khôi ngô tuấn tú,
một đấng trượng phu xuất cách được biểu hiện ngay từ lúc sơ sinh. Tương
truyền rằng, khi sinh thái tử, lúc đó trái đất rung chuyển bảy lần, nhạc
trời rềnh vang cả hư không, muôn chim bay lượn khắp trời, cây cối trong
vườn xinh tươi hẳn lên và đức Bồ Tát hạ sinh từ hông phải của mẹ, bước
đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen đỡ chân. Ngài dõng dạt tuyên ngôn:
“Thiên Thượng Thiên Hạ, Duy Ngã Độc Tôn, Vô Lượng Sinh Tử, Ư Kim Tận
Hỷ”
- Trên trời dưới trời, sự giác ngộ là trên hết. Mọi trói cột của sanh
tử, đời này đoạn diệt hết.
Sau đó, đoàn tùy
tùng đưa bà hồi kinh, trước sự đón rước mừng vui, reo hò của thần dân
trong kinh thành. Và người vui mừng tột độ không ai khác hơn là vua Tịnh
Phạn, một người đã ngày đêm khẩn cầu để có được hoàng nam xứng đáng kế
thừa vương vị. Lúc ấy vào ngày trăng tròn tháng
Vesak Ấn Độ, tương đương rằm tháng tư
âm lịch, năm 623 (hoặc 624) trước kỷ nguyên Tây lịch.
Hiện nay, tại
vườn Lâm Tỳ Ni vị trí quan trọng nhất đang được xây kín lại để chống xói
mòn và hư hoại. Bên trong là những nền gạch cũ mục, một vài chỗ phải
được chống đỡ để khỏi bị sụp đổ. Những vết tích cổ xưa như dấu chân vẫn
còn in trên đá, được xác định là vị trí lúc Đức Phật đản sinh. Trên bờ
tường gạch kề bên dấu chân Phật, cách mặt đất khoảng 3m có một bức phù
điêu rất xinh đẹp khắc hình hoàng hậu Ma Da trong tư thế đứng đang đưa
tay vịnh cành cây vô ưu, phía trước có hình thái tử đản sinh và xung
quanh có những thị nữ đang đứng hầu.
Quang cảnh xung
quanh Lâm Tỳ Ni ít nhiều cũng có bàn tay chăm sóc của con người. Bên
cạnh nền gạch cũ còn sót lại, một vài cây xanh vươn mình che bóng mát
khiêm tốn trong khoảng trống giới hạn; vài khóm hoa cùng đua sắc màu
trong bầu trời xuân tươi đẹp. Bao nhiêu đó cũng làm cho khu thánh địa
Lâm Tỳ Ni gợi lên được sức sống tiềm ẩn, cố chờ đợi sự huy hoàng sẽ được
lập lại tại khu thánh địa này, nơi đánh dấu sự ra đời của bậc vĩ nhân.
3. Trụ đá Vua A Dục (Asoka)
Thạch trụ vua A Dục Ảnh: Tâm
Bửu
Lâm Tỳ Ni, vườn ngự uyển với bao kì hoa dị thảo, đẹp
đẽ lạ thường hôm nào không còn nữa, giờ đây chỉ còn lại một vài cây cỏ
lác đác quanh khu vực và một vài phế tích được tìm thấy bởi các nhà khảo
cổ. May mắn thay cho người con Phật chúng ta, cho những người muốn tìm
hiểu về sự thật Phật giáo, một thánh tích dù không còn nguyên vẹn, nhưng
nó đã chứng thật với lịch sử, vẫn hiên ngang với trời đất, vẫn tự hào
với tất cả mọi tôn giáo được tô vẽ bằng huyền thoại. Đặc biệt nhất là
trụ đá của vua Asoka, một vị vua Phật tử đã làm rạng danh Phật pháp
trong suốt triều đại của ông, khoảng thế kỷ thứ III trước kỷ nguyên Tây
lịch. Nhờ những thạch trụ và các dòng chữ còn ghi lại trên bia ký, mà
mọi người còn biết được vị trí chính xác của các thánh tích Phật giáo,
đồng thời cũng là những bằng chứng xác thực cho Phật giáo ngày nay và
mãi đến ngàn sau. Nội dung của bia ký được khắc trên trụ đá này bằng chữ
Brahmi, đại khái như sau: “Vào năm thứ 20 kể từ khi vua Piyadassi (vua A
Dục) đăng quang, chính ông thân hành đến đây để chiêm bái, cúng dường.
Bởi đức Phật Thích Ca, thánh nhân của dòng Sakyā được sinh ra nơi này.
Ông cho dựng trụ đá để đánh dấu nơi đản sinh của Phật. Dân làng tại Lâm
Tỳ Ni được giảm thuế, chỉ đóng một phần tám sản phẩm thu hoạch”.
Đoàn chúng tôi làm lễ trước thạch trụ, tưởng niệm đến
sự kiện đản sinh của đức từ phụ Thích Ca hơn 2500 năm về trước, nguyện
cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an cư lạc nghiệp và nguyện Phật
pháp sẽ được trùng hưng nơi Ấn Độ, cái nôi của Phật giáo khắp cả năm
châu.
4. Hồ nước và cội Bồ Đề
Cách
trụ đá khoảng 50 m có một cái hồ nước vuông, bên cạnh hồ nước có một cây
Bồ Đề rất lớn. Được tương truyền rằng, tại đây hoàng hậu Ma Da đã tắm
trong hồ nước này sau khi lâm bồn. Chúng tôi thiết nghĩ, hồ nước này xưa
kia chỉ là hồ đất, nhưng nay được xây dựng lại bằng xi măng và có các
cấp bậc đi xuống đáy hồ một cách dễ dàng. Nước hồ trong xanh và mặt hồ
yên tĩnh nên luôn phản chiếu các cảnh vật xung quanh, dù cách xa như
ngôi nhà bao bọc khu khai quật phế tích hay những cành lá Bồ Đề vươn dài
trên bờ hồ đều phản chiếu một màu xanh biếc dưới bầu trời trong yên ả.
Ngồi dưới tàng cây Bồ Đề râm mát bên bờ hồ, chúng ta cảm thấy thật dễ
chịu và nên thơ làm sao! Rất tiếc, chúng tôi không phải nhà thơ nên
không thể xuất vài vần thơ làm kỷ niệm. Và rồi thời gian không cho phép
nán lại lâu hơn nữa, đoàn chúng tôi tiếp tục lên đường đến Câu Thi Na
(Kusinagar), nơi đức Thế Tôn nhập Vô Dư Niết Bàn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/phatquoc_kysu2.htm