1. Tháp Niết Bàn và tháp Xá Lợi
Tháp Niết Bàn và tháp Xá
Lợi Ảnh: Tâm Bửu
Khoảng tám giờ tối, đoàn chúng tôi đến Câu Thi Na
(Kusinagar) thuộc bang Bihar, nơi mà hơn 2500 năm về trước đức Thế Tôn
từ giã cõi đời an trụ Vô Dư Niết Bàn, tìm chỗ nghỉ ngơi để chuẩn bị cho
công việc ngày hôm sau. Đêm nay, chúng tôi ngủ tạm tại chùa Linh Sơn, ni
sư Trí Thuận trụ trì, ngôi chùa Việt Nam gần tháp Phật Niết Bàn. Chùa có
mở lớp dạy cho học sinh nghèo Ấn Độ khoảng 400 em. Trong khuôn viên chùa
có xây dựng tứ động tâm thu nhỏ trông rất xinh, nhằm tưởng nhớ đến bốn
sự kiện trọng đại trong cuộc đời đức Phật.
Sau khi dùng cơm sáng, chúng tôi bắt đầu vào nơi tháp
Niết Bàn để làm lễ và ghi hình lưu niệm. Vừa bước vào bên trong khuôn
viên của tháp Niết Bàn, lòng chúng tôi bỗng chùn lại và cảm nhận một nỗi
buồn man mác, khi hình dung lại chính nơi đây đức Phật đã xả báo thân
cuối cùng và an tường thị tịch.
Giai đoạn cuối cuộc đời ai cũng phải trải qua, nhưng
sao nghĩ đến lòng cũng cảm thấy ngậm ngùi chua xót khi phải tiễn biệt
người thân và lo lắng khi điều đó sắp xảy ra với chính bản thân mình.
Đức Phật đã dạy, cái gì có sanh ắt có diệt, có hợp rồi tan, con người ai
cũng một lần được sanh ra và một lần phải chào vĩnh biệt cõi đời. Đó là
một qui luật, là một lẽ thật cho dù phủ phàng nhưng không ai có thể thay
đổi được. Chỉ khác chăng mỗi người trong chúng ta có một cái chết bình
an, có được tự tại như đức Phật hay các vị Thánh để an trụ Vô Dư Niết
Bàn hay không, đó mới là điều quan trọng!
“Cuộc thế trăm năm nghĩ cũng dài,
Nhưng rồi không quá một tầm tay,
Trăm năm là những gì khoảnh khắc,
Chợt mất chợt còn như gió bay”.
Tượng phật Niết Bàn được tôn trí bên trong tháp
Niết Bàn
Ảnh: Tâm Bửu
Chúng tôi dự định tiến vào bên trong làm lễ, nhưng vì
nhiều đoàn đến viếng thăm, đang tụng kinh cầu nguyện và kinh hành nên
chúng tôi tạm đứng bên ngoài chờ đợi khoảng nửa giờ. Sau đó đoàn chúng
tôi (mặc dù chỉ có năm người) cũng được vào bên trong làm lễ theo truyền
thống Phật giáo Việt Nam và đi nhiễu ba vòng quanh kim thân Phật Niết
Bàn.
Như chúng ta được biết, gần 200 km từ Tỳ Xá Ly (Vesāli)
đến Câu Thi Na là đoạn đường cuối cùng trong đời mà đức Phật trải qua.
Vào thời Phật, Câu Thi Na là kinh đô của cộng hoà Malla, một thị tứ nhỏ
và nghèo nàn so với các nước hưng thịnh thời bấy giờ nhưng đức Phật lại
chọn nơi này làm nơi đại diệt độ với lý do liên quan đến tiền thân Ngài.
Khi đức Phật quyết định về Câu Thi Na nhập Niết Bàn, tôn giả A Nan cảm
thấy không được tương xứng với oai danh của đức Thế Tôn nên Ngài liền
bạch với đức Phật rằng, tại sao đức Thế Tôn không chọn các đô thị lớn mà
đức Thế Tôn đã từng du hoá và có nhiều đệ tử phú gia cúng dường lễ hoả
thiêu và thân xá lợi của Ngài như Chiêm Bà (Campā), Vương xá (Rājagaha),
Xá Vệ (Sāvatthī), Ba La Nại (Varanasi) .... Đức Phật từ chối và trả lời
rằng, thuở quá khứ Câu Thi Na là kinh đô của Chuyển Luân Thánh Vương tên
là Thiện Kiến, một trong những tiền thân của Ngài trong quá khứ, là một
kinh đô hưng thịnh phú cường. Và cũng chính nơi đây Ngài đã xả báo thân
đến bảy lần. Vì vậy, sự chọn lựa của Phật hoàn toàn phù hợp với sự quán
sát bằng tuệ giác của Ngài.
Những lời huấn thị cuối cùng của đức Thế Tôn và bối
cảnh diễn ra lúc đó được ghi lại đầy đủ trong kinh Đại Bát Niết Bàn
thuộc Trường Bộ Kinh, kinh Du Hành thuộc Trường A Hàm
và những lời dạy trên được tóm tắt trong kinh Di Giáo. Những lời
dạy của đức Phật thật từ bi, thương yêu, lo lắng, quan tâm đến tăng đoàn
sau này như người cha đầy trí tuệ lo lắng cho các con thơ dại của mình.
Vẫn là một xác thân tứ
đại, đức Phật cũng phải chịu luật vô thường biến hoại như mọi pháp hữu
vi có mặt trên cuộc đời. Chúng ta hãy nghe lời tâm tình giữa Phật và thị
giả thân tín nhất của Ngài: “Này A Nan! Nay ta đã già cả, đã suy yếu, đã
đến hạn kỳ cuối của cuộc đời, ta vừa tròn tám mươi tuổi. Này A Nan,
giống như cỗ xe cũ kỹ được làm cho chạy nhờ đám dây da chằng chịt nâng
đỡ; cũng vậy, thân Như Lai được duy trì và hoạt động nhờ nâng đỡ bằng
dây đai”. Đức Phật dạy: “Này A
Nan
hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, hãy tự làm nơi an trú cho chính mình,
không tìm nơi an trú khác. Lấy chánh pháp làm hòn đảo, lấy chánh pháp
làm nơi an trú, không tìm nơi an trú nào khác”. Trường Bộ Kinh - Đại
Bát Niết Bàn. Còn biết bao lời nhắn nhủ cuối cùng thắm thiết tình sư
đồ như những gì
đã từng diễn ra trong cuộc sống thường nhật. Bởi một sự xúc động trào
dâng nên chúng tôi muốn nhắc lại một vài lời dạy đầy thương cảm của đức
Thế Tôn. Giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu những di tích kỷ niệm liên quan
đến nơi Niết Bàn của Phật.
Hai cây Sa La song thọ Ảnh: Tâm Bửu
Trong kinh Di Giáo nói rằng: “Trong rừng Sa la,
giữa hai cây song thọ, Ngài sắp Niết Bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm, hoàn
toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đã vì các đệ tử mà nói tóm tắt
những điều cốt yếu của chánh pháp” - “Ư Sa la song thọ gian, tương nhập
Niết bàn, thị thời trung dạ tịch nhiên vô thanh, vị chư đệ tử lược
thuyết pháp yếu”. Như vậy, đức Phật nhập diệt tại rừng Sa La song thọ.
Sa La hay còn gọi là Ta La, đây là loại cây khá phổ biến tại các tu viện
ở Việt Nam. Chúng có tàng rất đẹp từng đôi đối xứng. Hiện tại, trong
khuôn viên tháp Niết Bàn của Phật ở Câu Thi Na, chúng ta không còn thấy
được rừng Sa La như thời xưa nữa mà chỉ có hai cây Sa La trồng bên cạnh
lối vào tháp, để kỷ niệm sự kiện lịch sử trọng đại này. Chỗ chính yếu
của khu thánh địa này là tháp Niết Bàn và tháp thờ xá lợi của Phật. Tháp
Niết Bàn có kiến trúc mái vòm hình lăng trụ, được chính phủ Ấn Độ xây
dựng lại vào năm 1956 để kỷ niệm lần thứ 2500 đức Phật Niết Bàn, bởi đức
Phật nhập Niết Bàn vào ngày rằm tháng 2 năm 544 trước kỷ nguyên Tây
lịch. Bên trong ngôi tháp này diện tích mặt bằng hình chữ nhật, có tượng
đức Phật nhập Niết Bàn bằng đá đen nhưng đã được thiếp vàng, dài khoảng
7m được tôn trí trên bệ thấp khoảng 5 tấc ngay giữa tháp. Mặt tượng
hướng về phía Tây, đầu gối lên tay phải, tay trái để xuôi theo thân về
hướng Nam trong tư thế nằm nghiêng. Đặc biệt nhất là dường như ít ai
kiềm chế được cảm xúc khi ngắm nhìn bức tượng này.
Lần đầu tiên vào năm 2005 theo đoàn du lịch chiêm bái
các thánh tích Phật giáo, tôi bỗng rung động toàn thân và trào nước mắt
khi vừa nhìn thấy kim thân Phật Niết Bàn, đó là những tình cảm chân
thành và lòng kính trọng tuyệt đối mà chúng ta đã dành cho đức Phật, một
con người bằng xương bằng thịt, một con người lịch sử trên trần gian
này. Mặt trước bệ thờ có một vài bức phù điêu nho nhỏ như: hình ảnh vị
sư đang bưng mặt khóc, đó là tôn giả A Nan rơi lệ dài trên má trước sự
ra đi vĩnh viễn của đức Phật, bởi Ngài chưa đắc quả vị A La Hán, là quả
thánh dứt trừ tất cả lậu hoặc, tâm không còn dao động trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Đối xứng với hình ảnh này có một phụ nữ đang quỳ mọp khóc than
là hình ảnh tượng trưng cho các thiện nam tín nữ khóc nức nở cho lần
cuối cùng được ngắm nhìn kim thân Phật. Và hình ảnh vị sư đang thiền
định, biểu trưng cho các hàng thánh giả và các Tỳ kheo đạt được sự thanh
tịnh tuyệt đối trong tâm hồn.
Nhìn từ phía mặt tiền của tháp Niết Bàn, chúng ta cứ
ngỡ rằng tháp Niết Bàn và tháp Xá Lợi là một cái tháp lớn, có cấu trúc
hình lăng trụ phía trước và hình tròn, đỉnh nhọn cao ở phía sau. Thật
ra, hai tháp này tách biệt nhau trên một nền cách nhau khoảng 3m, tháp
Niết Bàn thờ tượng Phật nhập Niết Bàn ở trước, và tháp xá lợi thờ Xá Lợi
Phật nằm phía sau. Tháp thờ xá lợi là do dòng họ Malla kiến tạo và tôn
thờ phần Xá Lợi Phật. Theo sách sử ghi lại, ban đầu bộ tộc Malla ở Câu
Thi Na không nghĩ rằng xá lợi của Phật phải được phân chia tám nước, vì
họ cho rằng đức Phật niết bàn tại địa phương họ thì họ trọn quyền thừa
hưởng báu vật vô giá này. Cuối cùng, để tránh đi sự tranh chấp có thể
xảy ra bất hoà giữa các nước, bộ tộc Malla nghe theo lời đề nghị của vị
Bà La Môn Dona, người đảm trách lễ hoả tán, phân chia xá lợi đều cho tám
nước:
1-
Đại vương A Xà Thế (Ajātasatu) thuộc nước Ma Kiệt Đà (Magadha)
thành Vương Xá (Rājagaha).
2-
Bộ tộc Licchavi ở Tỳ Xá Ly (Vesāli).
3-
Bộ tộc Thích Ca (Sakyā) ở Tân Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu).
4-
Bộ tộc Buli ở Allakappa.
5-
Bộ tộc Koliya ở Ramagama.
6-
Một bà la môn ở Vethadipa.
7-
Bộ tộc Malla ở Pava.
8-
Bộ tộc Malla ở Câu Thi Na (Kusinagar).
Như vậy, cộng hoà Malla giữ được hai phần ở hai trú
xứ khác nhau, đó là Pava và Câu Thi Na.
Tuy vậy, khi xá lợi đã được chia xong thì một sứ giả
của bộ tộc Moriya ở Pipphalivana đến đòi chia phần. Cuối cùng vị ấy đành
phải chịu nhận một ít tro ở giàn hoả. Còn Bà La Môn Dona giữ những gì
còn sót lại trong bình đất đựng xá lợi sau khi hỏa thiêu và được dùng để
chia phần. Như vậy, tổng cộng được tám bình xá lợi và hai bình tro được
tôn trí trong mười ngôi tháp để thờ mười chỗ khác nhau.
Theo nguồn sử liệu cho biết, đến nay hai bình trong
số đó đã được khai quật. Chiếc bình nhỏ hình cầu với lời ghi chú trên
nắp mà xưa kia bộ tộc Thích Ca làm lễ nhập tháp tại
Ca Tỳ La Vệ mới (Piprahwa)
được giữ lại trong bảo tàng quốc gia Ấn Độ ở
Calcuta. Còn chiếc bình thứ hai của cộng hoà Licchavi được đào lên tại
Tỳ Xá Ly (Vesāli) vào
năm 1958. Bình này chứa phần di cốt tro và nhiều vật khác. Những bảo vật
này đang thuộc quyền giám hộ của ban khảo cổ và bảo tàng chính phủ quốc
gia Bihar ở Patna. Theo quyển Đức Phật Lịch Sử - Tiến sĩ
H.W.Schumann.
Giống như các tháp khác tại Ấn Độ, tháp Xá Lợi này có
đỉnh rất cao khoảng 45m. Trong có mái hình vòm, nhọn ở đỉnh. Trên đỉnh
tròn của tháp là một hình trụ cao khoảng 0,5 mét, có một hàng hoa văn và
một tấm bia bằng đồng khắc kinh Nhân Duyên (Nidana) bằng tiếng Sanskrit
và có những dòng chữ ghi lại lịch sử pho tượng Niết Bàn của Đức Phật.
Trong tháp có nhiều tháp nhỏ chứng tỏ nó đã được trùng tu nhiều lần. Năm
1927 tháp được khôi phục hoàn toàn nhờ sự cúng dường của hai Phật tử
người Miến Điện là U Po Kyu và U Po Hlaing. Xung quanh tháp chính, có
nhiều tháp nhỏ và các nền gạch cũ nằm đan xen chính là nền của các tu
viện thời xưa.
Những ngôi tháp khác bao gồm tháp của Tu Bạt Đà La,
người đệ tử cuối cùng già nhất (120 tuổi), xuất gia với Đức Phật trước
khi Ngài nhập Niết Bàn; tháp Ngài Phú Lâu Na, thánh đệ tử thuyết pháp đệ
nhất .... Tuy nhiên, sau thời kỳ chiêm bái của Ngài Huyền Trang thì Phật
giáo tại thành Câu Thi Na ngày càng mất dần ảnh hưởng. Từ thế kỷ VII đến
thế kỷ XII, sử liệu Ấn Độ không hề đề cập gì đến nơi này nữa. Đến thế kỷ
thứ XIII, sau cuộc xâm lăng của đạo quân Hồi giáo, loạn lạc khắp nơi,
Câu Thi Na hoàn toàn đi vào quên lãng. Bên cạnh đó quân Hồi sẵn sàng đập
phá bất cứ thánh tích Phật giáo nào được khám phá trên bước đường viễn
chinh của họ. Như vậy, số phận thánh tích Câu Thi Na cũng như các thánh
tích khác bị đập phá trong khoảng thế kỷ XII và XIII. Mãi đến thế kỷ thứ
XIX, nhà khảo cổ người Anh tên Wilson (1854) tình cờ tìm thấy được dấu
tích thành Câu Thi Na. Sau đó các nhà khảo cổ Cunningham và Carlleyle
dựa vào tài liệu trong ký sự của Ngài Huyền Trang, tiến hành những cuộc
khai quật chính thức và sau đó người ta mới khai quật được tháp Niết Bàn
và tháp Xá Lợi trên cùng một nền gạch. Năm 1856 người ta hoàn thành việc
tái thiết tháp Niết Bàn. Năm 1956 Phật giáo Nhật Bản lại hợp cùng các
hội Phật giáo khác tài trợ trùng tu toàn bộ ngôi tháp Niết Bàn, và kiến
trúc ấy vẫn được giữ cho đến ngày nay. Đến những năm đầu thế kỷ XX nhà
khảo cổ Vogell đã tìm thêm được một số di tích khác tại làng Câu Thi Na.
Ngày nay Câu Thi Na cũng chỉ là một thị trấn nhỏ, cách khu vực Kasia
chừng 3 cây số về hướng Tây Nam và cách thành phố Gorakhpur chừng 50 cây
số trong bang Uttar Pradesh, thuộc vùng Bắc Ấn Độ. Dân cư quanh vùng rất
thưa thớt, nên cảnh trí vẫn còn chút gì đó phản ánh nơi thanh u, yên
tĩnh như ngày nào đức Thế Tôn đã chọn nơi đây làm địa điểm đại tịch diệt
của Ngài.
2. Tháp Trà Tỳ (Angrachatya), nơi hoả thiêu nhục
thân Phật
Tháp Trà Tỳ Ảnh: Tâm Bửu
Từ
nơi tháp Niết Bàn hướng về phía Đông cách khoảng 2 km có một ngôi tháp
gọi là tháp Trà Tỳ, tức là nơi đánh dấu vị trí hoả thiêu nhục thân của
Phật. Tháp này trông rất lớn, nhưng không được cao lắm so với các tháp
khác. Theo các nhà khảo cổ nghiên cứu,
tháp vẫn còn cao khoảng vài mét nữa
nhưng vì phần dưới chân bị lún sâu trong lòng đất nên chúng ta chỉ thấy
từ mặt đất trở lên như dáng dấp hiện thời. Khi chúng tôi vào thăm viếng,
ngôi tháp đang được mọi người chùi rửa và tu bổ. Dáng vẻ ngôi tháp giống
như một con rùa, rộng phần
chân và mô dần lên đỉnh hay nói thực tế hơn
giống như những ngôi mộ làm bằng đất ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Đường kính đáy tháp khoảng 45 m, cao khoảng 15m. Vào năm 1956, ngôi tháp
này cũng được khai quật và tìm thấy rất nhiều di chỉ cùng với niên đại
và ký tự thời xưa, chứng tỏ nơi đây chính là chỗ hoả thiêu nhục thân của
Phật.
Căn cứ vào lịch sử Phật giáo, nhục thân của Phật phải hoãn lại bảy ngày
sau đó mới hoả thiêu, vì còn phải đợi ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahakassapa)
cùng với các Tỳ kheo đang trên đường đến Câu Thi Na tham dự tang lễ của
Phật. Truyền thuyết kể lại rằng, sau khi đến nơi, ngài Ma Ha Ca Diếp và
các Tỳ kheo đi nhiễu quanh kim thân Phật ba vòng và quỳ đảnh lễ. Ngay
lúc đó đôi chân của đức Phật đã duỗi ra khỏi kim quan. Ngài Ma Ha Ca
Diếp ôm lấy bàn chân của Phật và cúi đầu thọ nhận mật chỉ cuối cùng của
Phật. Cũng như xưa kia tại pháp hội Linh Sơn, Ngài đã một lần mỉm cười
khi đức Phật đưa cành hoa sen, thầm nhận được yếu chỉ mật truyền từ đức
Thế Tôn, trong khi đại chúng tỳ kheo trong pháp hội đều ngơ ngác nhìn.
Đức Phật đã phó chúc cho Ngài Ma Ha Ca Diếp rằng: “Ta có chánh pháp nhãn
tạng,
Niết Bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng
lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng,
nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh pháp nầy, truyền trao
mãi đừng cho dứt, đến đời sau sẽ truyền cho A Nan”. Như vậy chúng ta
thấy được tầm quan trọng và uy tín của ngài Ma Ha Ca Diếp đối với đại
chúng thời Phật lớn lao như thế nào. Và sau đó
Ngài Ma Ha Ca Diếp được đại chúng cung thỉnh châm lửa hoả thiêu nhục
thân của Phật.
Cạnh ngôi tháp này, hướng bên phải từ cổng chính đi vào, chúng ta thấy
có nhiều tháp nhỏ lóm khóm còn nguyên vẹn,
nằm dưới mặt đất của lối đi cách tháp khoảng
3m và khi đếm thì được tám cái. Những người hướng dẫn nói rằng tám cái
tháp nhỏ biểu trưng cho tám vị quốc vương của tám nước được chia xá lợi
Phật tại nơi Trà Tỳ.
Rời khỏi nơi này chúng tôi cũng cảm thấy một chút gì đó ấm lòng khi nhìn
thấy cảnh vật được mọi người chăm sóc, cỏ được trồng tỉa vén khéo, tốt
tươi. Một tia hy vọng được thắp sáng trong tôi cho ngày mai Phật giáo sẽ
trở lại thời vàng son, đem đến cho người dân Ấn một cuộc sống bình đẳng,
ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc đầy đủ, ai cũng được hưởng trọn
quyền làm người mà xưa kia cả cuộc đời đức Thế Tôn đã làm. Ngài trở
thành nhà cải cách xã hội đầu tiên rất thành công trên thế giới.
Nền
nhà cư sĩ Thuần Đà (Cunda) Ảnh: Tâm Bửu
Thuần Đà (Cunda) là tên một người thợ sắt tại làng
Pava, người đã cúng dường bữa cơm cuối cùng trước khi Phật nhập Niết
Bàn. Khi đức Phật và chúng Tỳ kheo ngang qua làng Pava và dừng nghỉ tại
khu vườn xoài, thợ sắt Thuần Đà hay được tin đó liền đến chỗ Thế Tôn
đảnh lễ và ngồi xuống một bên để được nghe pháp yếu của Phật. Sau khi
nghe pháp, thợ sắt Thuần Đà sanh tâm hoan hỷ muốn cúng dường bậc Đạo Sư
và chúng Tỳ kheo vào ngày hôm sau. Đức Thế Tôn
im lặng nhận lời. Bữa ngọ
trai hôm đó, đức Thế Tôn nhìn thức ăn, một loại nấm lạ với vẻ nghi ngờ.
Nhưng với lòng tịnh tín, nhiệt tâm của người cúng dường nên đức Phật đã
dùng trọn phần của mình và bảo Thuần Đà đem chôn phần thức ăn còn lại,
vì Ngài biết rằng đó là một loại nấm độc.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn chép rằng: “Này Thuần Đà, món ăn mộc
nhĩ còn lại, ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Thuần Đà , Ta không thấy
một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm Thiên giới, không một
người nào trong chúng Sa Môn và chúng Bà La Môn, giữa những Thiên, Nhân,
ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai”. Sau bữa cơm
đó, bữa cơm cuối cùng, đức Thế Tôn bị bệnh trầm trọng và Ngài quyết định
đến Câu Thi Na. Chúng ta không nên nghi ngờ về hành động của Phật. Ngài
thừa biết nhân duyên đại tịch diệt đã đến, lại thêm lòng từ bi muốn tạo
phước đức cho kẻ cúng dường nên Ngài quyết định dùng bữa cơm này, cho dù
không dùng bữa cơm ấy thì thời giờ Niết Bàn của Phật cũng được Ngài chọn
sẵn như vậy. Để đánh tan nghi ngờ và niềm hối hận trong lòng của cư sĩ
Thuần Đà vì nghĩ rằng chính thức ăn mà mình dâng cúng làm cho đức Thế
Tôn nhập Niết Bàn. Đức Phật bảo Ngài A Nan hãy đến trấn an tinh thần
Thuần Đà với lời rằng: “Đức Thế Tôn đã nói có hai bữa ăn trong cuộc đời
đáng được ghi nhớ và phước báu hơn bất kỳ bữa ăn nào: một là bữa ăn
trước khi Như Lai chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác, hai là bữa ăn
trước khi như lai diệt độ Niết Bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai
bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi
ích lớn hơn các sự cúng dường ăn uống khác”. Kinh Đại Bát Niết Bàn.
Đoàn chúng tôi đến tận
làng Pava, nơi được cho là nền nhà của cư sĩ Thuần đà. Làng Pava hiện
nay là một khu thị trấn nhỏ, dân cư quanh vùng đông đúc. Trước khi đến
nền nhà của Thuần Đà phải qua một lối đi của nhà cư dân, hai bên đường
nhà cửa chen chút. Vượt qua xóm nhà dân là khoảnh
đất trống, phía
trước có tấm bảng giới thiệu, khoảng giữa có mô đất trộn lẫn gạch cũ cao
khoảng 6m. Trên cùng của mô đất có những ô gạch vuông cũ và các bức
tường đổ ngang dọc. Cách nền gạch này khoảng 10 m có cây Bồ Đề rất lớn,
cành lá sum suê. Người ta cho rằng đây là nền nhà của Thuần Đà. Nhưng
chúng tôi thiết nghĩ, ngôi nhà xưa không thể quá cao như vậy, rất có thể
do một ai đó, có thể là vua A Dục xây mộ để tưởng niệm giống như mộ kỷ
niệm của nàng Su Dà Ta, và đây chính là đóng gạch vụn của ngôi mộ được
kiến tạo sau này?
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/phatquoc_kysu8.htm