Kinh
Pháp Hoa Được Dịch Sang Tiếng Nga
Thích Nguyên Tạng
Kinh Pháp Hoa (Sadharma Pundarika
Sutram/The Lotus Sutra ) một bộ kinh theo tư tưởng Bắc Truyền được nhiều
dân tộc trên thế giới tán ngưỡng. Tính đến nay bộ kinh này đã được
dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như : Trung Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ,
Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Anh, Pháp, Đức, Thổ Nhỉ Kỳ và hiện tại
bộ kinh nổi tiếng này được chuyển ngữ sang tiếng Nga.
Người đang làm công việc phiên dịch này là giáo sư
Alexander Ignatovich, người đang phụ trách kho lịch sử Đông Nam Á châu thuộc
Viện Nghiên cứu Á - Phi Trực thuộc với Đại Học Moscow. Ông đã in sang
nhiều sách về Phật học và Sử học về văn hóa và tôn giáo ở Trung Hoa
và Nhật Bản bằng tiếng Nga. Ông đọc Kinh Pháp Hoa từ năm 1971 và quyết
định đưa vào công trình nghiên cứu của mình. Sau đó ông để tâm
nghiên cứu các bản dịch Kinh Pháp Hoa của ngài Chih-i và ngài Nichiren ( Nhật
Liên Thánh Nhân ) và một số sớ giải bằng tiếng Nhật hiện đại và
phát nguyện chuyển ngữ bộ kinh này sang tiếng Nga. Trong chuyến viếng thăm
Nhật Bản gần đây, ông đã cho phóng viên tờ DHARMA WORLD biết về công
việc phiên dịch kinh điển của mình.
Khi dịch Kinh Pháp Hoa (KPH) ra tiếng Nga ông có nghiên cứu
các tài liệu liên
quan không ?
Có chứ. Tôi đặc biệt chú ý đến các KPH trong ngôn ngữ
Châu Âu và tiếng Nhật
hiện đại. Nói như vậy không có nghĩa là tôi không quan tâm đến các bản
dịch và các bản sớ giải cổ điển khác, tiếc thay những bản dịch và
sớ giải như thế có quá ít ở Nga. Từ khi đến Nhật Bản tôi có dịp
nghiên cứu thêm sáu bộ sớ giải cổ điển và tôi sẽ trích dẫn từ những
tác phẩm này cho bản dịch tiếng Nga của tôi như bộ của Chih-i và bộ
" Pháp Hoa Nghĩa Sớ " của Thái tử Shòtoku.
Các bộ kinh sớ giải Kinh Pháp Hoa của các học giả Nhật
Bản ở thế kỷ hai mươi rất hữu ích. chẳng hạn như các bộ "Những
Bài Giảng Nổi Tiếng Về KPH", 12 quyển của Ichiro Kobayashi Yoshiro, Kinh
Pháp Hoa, 3 quyển của Yukio Shamoto và Kinh Pháp Hoa, 2 quyển của Yoshiro
Tamura và Kyòkò Fujii. Tôi chắc chắn rằng với sự giúp đỡ của những bộ
sớ giải này tôi sẽ có thể tạo ra được một bản dịch tiếng Nga chính
xác. Ví dụ, đầu phẩm Tín Giải (Faith Discernment) thứ tư, có nói đến các
tôn giả Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp và Mục Kiền Liên. Bản
dịch này cho rằng từ " wisdom-destined" (Huệ Mạng) áp dụng cho cả
bốn vị. Tuy nhiên theo ngài Ichiro Kobayashi thì " wisdom-destined" chỉ
liên quan đến Tu Bồ Đề và "Maha" (Đại) là từ dùng cho các vị
kia. Tôi sẽ theo cách đọc này.
Cái gì đã đặc biệt gây sự chú ý của ông khi ông dịch
KPH và đọc các bản dịch cổ cũng như các bản dịch của các học giả
Nhật Bản ở thế kỷ hai mươi này ?
Tôi tình cờ đọc được một quyển sách có tựa là
" Kinh Pháp Hoa và Vật Lý Nguyên Tử " ( The Lotus Sutra and nuclear
Physics ) của một nhà Vật Lý học người Nhật Bản. Ông ta viết rằng một
số vị Phật được kể trong KPH là tương tự như những nguyên tố được
khám phá ra bởi các nhà Vật lý học hiện đại và ông kết luận rằng mỗi
vị Phật này phải phù hợp với một nguyên tố đặc biệt. Chính điều
này làm cho tôi để ý đến các bản dịch hiện đại của KPH. Theo kinh
nghiệm của tôi thì họ thường đi xa và xem nhẹ những điểm quan trọng
của kinh. Vì thế tôi thích tạo ra một bản dịch nặng ký hơn các bản dịch
cổ điển và truyền thống. Tôi cũng chú ý đến một số xu hướng hiện
đại hóa trong các bản dịch khác nhau về KPH mà chúng có thể tiếp tục
được dịch sang các ngôn ngữ Châu Âu. Khi tôi nghĩ về lời phát biểu rằng
mỗi nguyên tố là đại diện cho mỗi vị Phật, tôi cho rằng những khuynh
hướng như vậy là không cần thiết cho người Nhật.
Thông thường, người ta đồng ý rằng KPH được viết tại
miền Tây Bắc nước Ấn độ
Trong khoảng thế kỷ thứ I và thứ II, sau đó Kinh được truyền bá sang
Trung Hoa,Triều Tiên rồi đến Nhật Bản. Trong lễ k? niệm lần thứ hai
mươi của Hội Phật Giáo Rissho Kosei-Kai, khi một thành viên lãnh đạo phát
biểu rằng đó là thời gian để tuyên bày một giáo lý mới cho tổ chức.
Ông Nikkyo Niwano ( Chủ tịch hội ) liền trả lời : " Đó là sự phỏng
đoán thêm vào lời dạy của KPH, một bộ kinh đã tồn tại một thiên
niên kỷ, tự nó đã có trọng lượng rồi cần thêm chi nữa", ý kiến
ông thì sao ?
Tôi vinh hạnh được đọc bộ sớ giải KPH bằng tiếng
Anh của ông Nikkyo Niwano. Tôi cảm thấy rằng ông ta không tạo ra một bộ
luận mới mà đưa ra nhiều lời di-n giải trong những thuật ngữ mới và
cố gắng giải thích bộ Kinh bằng một phương cách mà con người trong thế
kỷ hai mươi có thể hiểu được. Tôi thấy không có lý do gì để đọc
lại hoặc sữa lại bản gốc.
Người Tây phương có thể chia sẻ những hiểu biết thông
thường về giáo lý cơ bản của KPH như " Phật, Pháp, Tánh không, Thật
tướng của các pháp" không ?
Bản dịch của tôi sẽ được chia thành năm phần, bao gồm
một phần khá lớn về bản chú giải thuật ngữ Phật học. Tôi muốn giải
thích các thuật ngữ liên hệ đến Phật Giáo và KPH được sử dụng
trong bản dịch của tôi. Khi giải thích về "Pháp" và "Tánh
Không" tôi dựa vào các phẩm của Otto Rosenberg và Theodore Stcherbatsky (
Sáng lập viên Hội Thư Mục Phật Học ). Chẳng hạn, khi gặp các từ
pháp (law/Dharma), tùy theo trường hợp mà tôi dịch theo hai cách. Thứ nhất,
pháp là "Pháp môn", thứ hai, Pháp là "các pháp" nói chung.
Để phân biệt hai nghĩa này trong bản dịch tiếng Nga, tôi viết hoa từ
"Pháp môn", còn chữ không viết hoa là " các pháp".
Người Nhật hiểu giáo lý vô thường của vạn hữu như là
một chuyện bình thường, còn người Nga sẽ như thế nào?
Trong tiến trình lịch sử lâu dài của người Nhật Bản,
Phật giáo đã đi sâu vào trong cuộc sống của người dân Nhật và KPH vẫn
tiếp tục ảnh hưởng sâu rộng trên nền văn hóa Nhật Bản. Kết quả
là người dân Nhật có những quan niệm, có những hiểu biết về Pháp Hoa
Kinh trong máu của họ. Còn đối với người Nga, tiếc thay, ở Nga chỉ có
một vai người đọc được KPH qua bản dịch tiếng Anh hay tiếng Trung Hoa.
Do đó, thật quan trọng và hết sức bức thiết cho tôi hoàn thành tốt đẹp
và chính xác bộ KPH bằng tiếng Nga cho người dân của chúng tôi.
Hầu hết mọi người đều cho rằng nước, không khí và
ánh sáng là chuyện tự nhiên. Tôi e rằng nhiều người cho rằng KPH và đạo
Phật cũng thế. Tôi nghĩ sự quan sát của ông sẽ khách quan hơn ?
Tôi nhìn thấy sự nguy hiểm cho chính bản thân tôi. Tôi
được lớn lên và học hành trong xã hội nói tiếng Nga và văn hoá phương
Tây, những cái tương tự như thế đã ảnh hưởng tôi. Như Goethe đã
nói, để hiểu ngôn ngữ của bạn một cách chính xác, bạn nên học một
ngoại ngữ. Trong thời gian này, tôi đang trải qua kinh nghiệm đó. Tuy
nhiên, nhiều người không phải học ngoại ngữ để hiểu văn hóa và truyền
thống của họ. Khi tôi tiếp xúc một cái gì đó khác với truyền thống
của tôi, tôi có thể nhận ra một lãnh vực mới ngay chính trong tôi.
Kinh Pháp Hoa đã hấp dẫn ông điều gì ?
Hai điều. Thứ nhất, lời dạy của KPH dường như ứng dụng
một cách bình đẳng cho tất cả mọi người. Cái hấp dẫn tôi nhất là
nội dung của phẩm " Bồ Tát Thường Bất Khinh" (The Bodhisattva
Never Despise). Chúng ta biết rằng một vị Bồ Tát cuối cùng sẽ thành Phật,
chúng ta phải nhận ra rằng chính chúng ta là người phải đạt được Phật
quả. Vị Bồ Tát Thường Bất Khinh nói với bất cứ ai khi ngài gặp :
" Tôi không dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật". Mặc
cho họ ném đá và chế nhạo ngài, ngài vẫn giữ một khoảng cách an toàn
và lập lại lời chúc tụng những kẻ khinh rẻ, hành hạ ngài như là những
vị Phật tương lai.
Thứ hai, là chín ẩn dụ của KPH. Dụ nhà lửa, dụ dược
thảo, dụ hoá thành, dụ cùng tử, dụ hạt châu chéo áo, dụ hạt châu
búi tóc, dụ ông thầy thuốc, dụ cha trẻ con già và dụ đào giếng, đó
là những ẩn dụ độc đáo của KPH đã thu hút tôi.
Tôi đọc kinh lần đầu tiên vào năm 1971 bằng bản dịch
tiếng Anh do nhà xuất bản Kosei ấn hành. Tôi đọc kinh và liền nghĩ đến
việc phiên dịch bộ kinh này ra tiếng Nga. Đó là thời điểm Liên Xô còn
mạnh, sách ngoại quốc khó tìm thấy ở tiệm sách. Bộ kinh tôi đọc chỉ
là một bản photocopy có nhiều vấn đề nảy sinh bởi vì đó là một bộ
sách tôn giáo. Tôi chưa hề đọc thánh kinh. Cuối cùng tôi mới kiếm được
một bản gốc của KPH và tôi bắt đầu nghiên cứu. Tôi viết luận án tốt
nghiệp của tôi về ba tác phẩm chính của ngài Nichiren. Khi tôi đọc những
tác phầm của ngài, tôi thích nhất là bộ KPH. Tiếc thay, tôi không có bản
chính văn mà chỉ là bản chú giải và một bản dịch hiện đại. Rồi một
vài năm trước đây, tôi nhận một bản gốc và một lần nữa tôi lại bị
thu hút bởi KPH.
Khi tôi hoàn tất bản dịch KPH tôi hy vọng sẽ chuy-n ngữ
thêm năm tác phẫm chính của ngài Nichiren Thực tế, cách đây hai năm tôi
đã in một phần sách dịch của tôi về quyển Kaimokusho (Khai nhản) của
ngài Nichiren. Nhưng đó là một quyển sách in vội vã và tôi phải đính
chính lại rất nhiều chỗ . Tôi rất biết ơn sự nghiên cứu và các bộ
sớ giải của các giáo sư thuộc Đại Học Rissho, những yếu tố đã
giúp cho sự hiểu biết của tôi về di sản tinh thần của thánh nhơn
Nichiren, cũng như vô số những lời phê bình, đánh giá hữu ích mà tôi nhận
được.
Ông có quan tâm đến ý kiến cho rằng nhà văn Tolstoy (1828
- 1910) rất gần gũi với kinh điển Phật Giáo không ?
Tôi nghĩ mọi người ở Nhật Bản đánh giá cao và hiểu
biết nhiều về Tolstoy (Nhà văn nổi tiếng người Nga). Điều đó chứng tỏ
rằng người Nga và người Nhật chia sẻ cho nhau nhiều đức tin về đời
sống nội tâm. Chính Tolstoy có một sự quan tâm sâu sắc đối với tôn
giáo và triết học Phương Đông, đặc biệt là đạo Phật và Lão. Lúc
bây giờ, những hiểu biết về đạo Lão rất hạn chế ở Châu Âu, nhưng
đã có một số sách viết về Đức Thích Ca bằng tiếng Châu Âu rồi.
Tolstoy biết thông thạo nhiều thứ tiếng như Pháp, Đức, Anh, Ý.... do đó
ông đã đọc nhiều bản dịch từ Kinh Tạng Pàli và Kinh Tạng Đại Thừa
do các học giả Anh và Đức phiên dịch. KPH được dịch sang tiếng Pháp
và tiếng Anh trong khoảng thời gian ông còn sống và rất có thể ông đã
đọc được bộ kinh này. Phật Giáo Đại Thừa được biết đến ở Nga,
nhưng chỉ có một số ít người nghiên cứu. Do đó rất khó xác định
được mức độ ảnh hưởng của Tolstoy đối với KPH và kinh Phật nói
chung. Tôi nghĩ rằng rất có thể là ông ta đọc được nhiều kinh điển
Phật Giáo. Điều đó hoàn toàn có lý, vì trước năm ông mất 1910, ông đã
đọc một số kinh Phật được phiên dịch bởi học giả người Nga
I.E.Minayev.