- Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp chư Tăng Ni Việt
Nam
- Lưu Kim Chi tường thuật
Vào lúc 9:30 sáng Thứ Hai 26 tháng 6 năm 2000, ngày Tương Hội
đầu tiên của Thiên Niên Kỷ giữa chư Tăng Ni Việt Nam hải ngoại và Đức
Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần Phật Giáo Tây Tạng, đã diễn
ra trong niềm vui hòa ái, tại khách sạn Omni, Los Angeles.
Trên một trăm Chư Tôn Đức Tăng Ni Việt Nam tại hải ngoại
đã đáp lời mời của Ban Tổ Chức, hoan hỉ vân tập về Los Angeles, tham
dự buổi gặp gỡ lịch sử này.
Lời chào mừng ưu ái Tất cả chư Tăng Ni đều đứng dậy
khi Đức Đạt Lai Lạt Ma xuất hiện. Với nụ cười hiền hòa, ánh mắt từ
bi và vòng lưng cong khi cúi chào, không khí phòng Hội trang nghiêm càng thêm
cung kính và hoan hỉ.
Sau phần tụng bài Tâm Kinh do Chư Tăng Ni Việt Nam đồng tụng
và bài Tâm Kinh do Đức Đạt Lai Lạt Ma và chư Tăng Tây Tạng đồng tụng,
trong phần diễn văn chào mừng, Hòa Thượng Thích Hộ Giác đã đại diện
Chư Tăng Ni Việt, ngỏ lời chào mừng và bày tỏ niềm mến phục đức độ
hoàng pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại các quốc gia Tây phương.
Trong phần đáp từ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bày tỏ niềm
xúc động, lần đầu tiên tiếp xúc với Tăng đoàn Việt Nam đông đảo
như thế này, dầu là trong quá khứ Ngài đã có cơ duyên gặp gỡ một số
chư Tăng Ni Việt Nam qua công cuộc hoằng pháp. Đức Đạt Lai Lạt Ma đặc
biệt tán thán "nghị lực tồn tại và tâm thành" của người Việt
Nam, trong vấn đề bảo tồn và phát huy Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại
cũng như tại Việt Nam.
Nói về sự hoằng pháp Phật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma xác
quyết một điểm quan yếu, đó là, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử,
đạo Phật được phát triển tại các nước trên thế giới, là do sự cảm
nhận của người dân tại đất nước đó về các lợi lạc do sự hành
trì pháp của Phật, chứ không do sự cưỡng bách theo tôn giáo này.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói thêm rằng, căn bản của sự
hành trì Phật giáo Tây tạng đặt trên sự quan trọng của chánh kiến. Sự
hiểu biết đúng (chánh) về mọi sự việc, về các pháp, chân thật như
thế (như thị), sẽ dẫn dắt đến một sự hành trì chân chánh đúng đắn,
và từ đó sẽ đến chánh quả, tức là kết quả đúng đắn.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng bày tỏ qua điểm của Ngài về
giá trị vật chất ở các nước tân tiến. Theo đó, trong một quốc gia chậm
tiến con người phải đối đầu với cuộc vật lộn hàng ngày cho miếng
cơm manh áo và sự sống còn, nên không mấy cảm thấy sự thiếu thốn về
tâm linh. Ngược lại, tại các quốc gia tân tiến, nơi nhu cầu ăn mặc
căn bản tạm ổn định, thì những nhu cầu thiếu thốn về tâm linh gia tăng.
Cuộc nói chuyện tương thân Qua sự thông dịch Anh ngữ của
thầy Thích Giác Đẳng, chư Tôn Đức Tăng Ni Việt Nam đã bày tỏ quan điểm,
và được sự đáp ứng của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Một số ý kiến đã được trao đổi với Ngài, chẳng hạn
như vấn đề thiết lập các cơ sở liên lạc giữa hai nền Phật giáo Việt
Nam và Tây Tạng (liaison). Trong phần đáp từ, Đức Đạt Lai Lạt Ma rất
hoan hỉ với đề nghị này, ngài nói chính cá nhân ngài đã nghĩ đến điều
đó. Ngài đã suy tư làm sao phát triển sự liên hệ tốt đẹp và lợi lạc
cho cả hai quốc gia, để có thể trao đổi Tăng và Ni đi tu học tại các
tu viện Việt Nam và Tây Tạng v.v...Và nhiều lợi lạc văn hóa và tôn
giáo lâu bền cho cả hai dân tộc.
Trong niềm suy tư đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận thấy rằng
Tu Viện Trưởng Geshe-la Tsultim Gyeltsen, Trung Tâm Phật Giáo Tây Tạng Thubten
Dhargye Ling, tại Long Beach, đã có những nỗ lực trong những năm trước và
cho đến bây giờ, giới thiệu và mời Đức Đạt Lai Lạt Ma đến với các
cộng đồng và Phật tử Việt Nam.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tán thán công đức của Geshela
Tsultim Gyeltsen trong trọng trách "liaison" giữa hai nền Phật giáo
và giới thiệu Geshe-la lo vấn đề thiết lập văn phòng liên lạc.
Khi trao đổi quan điểm về các vấn đề như sự khác biệt
trong lãnh vực tâm linh giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, có nên hệ
thống hóa Phật giáo để phát triển, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận định rằng
Phật Pháp còn có thiên vạn pháp môn cho thiên vạn căn cơ khác biệt giữa
chúng sanh (tám vạn bốn ngàn pháp môn), thì đối với các tôn giáo bạn
ta nên kính trọng những tôn phái khác biệt, thay vì phê bình và đả phá.
Ngài còn cho rằng đạo Phật ngày nay cần phải đa dạng, phong phú, thì mới
đáp ứng kịp với một thế giới ngày càng phát triển.
Khi được hỏi về vấn đề đã đến lúc người Tây Tạng
nên thay đổi thái độ "bất bạo động" để giải quyết vấn đề
Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu rằng, đối với Ngài, "bạo
động" là một trong những phương cách, nhưng không phải là một phương
cách hay nhất. Ngược lại, thái độ "bất bạo động" bảo tồn
được tiềm năng. Lại nữa, thế giới ngày nay đã phát triển theo chiều
hướng một quốc gia không biên giới, trong đó ai cũng là anh em liên hệ với
nhau, nên việc làm đổ máu một người anh em này sẽ gây phẫn kích cho người
anh em khác, mà tựu trung vẫn không giải quyết được vấn đề Tây Tạng.
Khi phát biểu ý kiến về các câu hỏi liên quan đến vấn
đề làm sao gia tăng thành phần Tăng Ni để truyền pháp, làm sao nuôi dưỡng
nghị lực để hoằng pháp tại nước ngoài, làm sao giữ tín đồ không bỏ
đạo và làm sao giúp thế hệ trẻ lớn lên tại Mỹ đạt được sự an lạc,
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, ở thời điểm nào, cũng cần các Tăng Ni
với lòng tự giác, với cái "dũng khí" nhất tâm hành trì và hoằng
pháp để mang Phật pháp tới mọi tầng lớp chúng sanh. Thêm vào đó, một
căn bản vững vàng về Phật pháp, một căn bản tinh tấn hành trì lời Phật
dạy, đều là những trợ duyên cho sự hoằng pháp tại nước người. Ngài
còn nói thêm rằng, chúng ta là "khách" trên đất nước này trong vấn
đề truyền pháp, nên việc sống gương mẫu để xây dựng một xã hội tốt
đẹp là điều rất phải và nên làm. Còn đối với thế hệ trẻ lớn lên
tại Mỹ, để có một nếp sống an lạc cũng không ra ngoài các căn bản sống
gương mẫu, sống nghiêm túc và chân chánh như vừa kể trên.
Khi được hỏi ý kiến về vấn đề có người gọi ngài
là Phật sống, thì Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời rằng danh hiệu "Lạt
Ma" chỉ nói về kiến thức và sự tu học Phật của ngài chứ không
phải là danh hiệu Phật sống. Ngài cười khiêm tốn nói rằng trên con
đường tu học có khoảng 5 giai đoạn, ngài đang ở giai đoạn "tích tụ",
tức là sau giai đoạn "phát tâm", và có nghĩa là chưa đến đâu cả,
còn rất nhiều đại kiếp tu tập nữa mới được thành Phật. Cách trả
lời dí dỏm và sự khiêm cung của ngài làm cả phòng họp cười vang.
Một trong 2 câu hỏi chót là tu sĩ Phật Giáo Tây Tạng có
quyền có vợ con và gia đình không, ngài trả lời rằng theo truyền thống
Phật giáo Tây Tạng, giới Tu Sĩ, xuống tóc, mặc áo đỏ, lấy Giới Luật
làm Thầy, thì không có quyền lập gia đình. Trong khi đó giới Cư Sĩ, để
tóc dài mặc áo trắng, có quyền có vợ và gia đình. Người cư sĩ nào
có vợ con mà khoác áo Tu Sĩ hoặc người đã là Tu Sĩ mà tiếp tục sống
như người Cư Sĩ, đó là những người có sự lầm lẫn lớn, có sự hiểu
biết không đúng.
Buổi nói chuyện đáng lý phải được kết thúc lúc 11:00
giờ, nhưng vì còn quá nhiều câu hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma cho thêm 15
phút nữa, khiến ai cũng vui mừng mà Ngài cũng thoải mái. Buổi lễ kết
thúc bằng bài tụng Tứ Hoằng Thệ Nguyện và Hồi Hướng bằng tiếng Việt
và kế tiếp là bài Hồi Hướng bằng tiếng Tây Tạng.
Hòa Thượng Thích Hộ Giác và Hòa Thượng Thích Giác
Nhiên, đại diện chư Tăng Ni tặng quà lưu niệm Đức Đạt Lai Lạt Ma. Để
đáp lại Ngài cũng tặng quà và choàng khăn cho một số Tăng Ni.
Phần cuối của buổi Tương Hội là một bức ảnh lưu niệm
với các chư Tăng Ni, và chương trình kết thúc lúc 11:15 phút, dầu còn nhiều
câu hỏi và vấn đề cần trao đổi. Tiếc rằng thời gian hạn hẹp, phần
cuối của chương trình, có nhiều câu hỏi bị cắt ngắn đoạn, nhiều
Chư Tăng Ni chưa kịp hỏi thì đã hết giờ!
Tuy thế, trong phần phát biểu cảm tưởng về buổi Tương
Hội, các chư Tăng Ni rất "hoan hỉ, vui mừng và sung sướng" có
duyên lành được gặp gỡ và nói chuyện với Đức Đạt Lai Lạt Ma, vì
ngài là biểu tượng cho "Từ Bi và Trí Huệ" và một gương mẫu cần
noi theo.