- SỰ PHỤC HỒI
NI ĐOÀN
- TRONG TRUYỀN THỐNG
THERAVAADA
- Thích Nữ Liên Hiếu dịch
Dịch
từ nguyên tác tiếng Anh " Restoring the Order of Nuns to the Theravaadin
Tradition" của Senarat Wijayasundara đăng trong tác phẩm Buddhist Women
Across Cultures - Realizations do Karma Lekshe Tsomo biên tập. (Delhi 110007, Sri
Satguru Publications, 2000, các trang 79-86).
Những người tu theo giáo pháp của
Đức Phật gồm 4 thành phần: Tăng, Ni, nam cư sĩ, và nữ cư sĩ뮠Trong hai truyền thống lớn của phật giáo: Mahaayaana
và Theravaada, thì Mahaayaana vẫn còn 4 thành phần này. Vì một số
nguyên nhân, kể cả những đợt xâm lăng vào Tích Lan, truyền thống Theravaada
đã mất đi Ni đoàn vào khoảng sau thế kỷ thứ X. Điều này làm cho phụ
nữ trong các xã hội theo Theravaada không phát triển được đời sống
tâm linh, mặc dù không phải tội của chính họ gây ra. Người ta có thể
đặt một câu hỏi hết sức hợp lý là tại sao không có những bước thực
hiện nối tiếp chín trăm năm sau để phục hồi Ni đoàn cho hợp với vị
trí đúng đắn của nó.
Nguồn gốc của Ni đoàn đã được
chứng minh trong kinh điển Paali[1]. Việc cho phép gia nhập Tăng đoàn của
chư Ni đã thành công với rất nhiều khó khăn, nhờ sự khéo léo trình thưa
của Tôn giả AAnanda- Người đại diện cho Mahaapajaapatii[2] và đoàn tuỳ
tùng của Bà蠦#273;ể trình bạch lên Đức
Phật. Cương vị của Đức Phật đòi hỏi Ngài phải xem xét việc này .
Trong tác phẩm "Phụ Nữ trong Phật Giáo Nguyên Thuỷ" (Women
under Primitive Buddhism) của I. B. Horner, Bà nói rằng, "Tôi hy vọng
trình bày (Đức Phật) không như người ta thường nói về Ngài, là ngay từ
đầu thâu nhận phụ nữ vào Tăng đoàn một cách miễn cưỡng, nhưng vì
lòng từ bi của Ngài đối với mọi loài, kể cả nam nữ và蠣ho đến thú vật. Ngài nhìn thấy tiềm năng thiện
lương và tiềm năng tâm linh trong họ rõ ràng như Ngài đã nhận thấy
chúng trong nam giới. Do vậy, dù họ có trải qua đời sống thế tục hay
trong cộng đồng tôn giáo, cũng không có trở ngại gì đối với Ngài để
chỉ cho họ con đường dẫn đến hạnh phúc, giải thoát - một con đường
chính họ có thể tự tu dưỡng bản thân bằng tự làm chủ chính
mình."[3]
Tôn giả AAnada sau này bị chỉ
trích là đã thuyết phục Đức Phật thành lập Ni đoàn[4], mặc dù Ni đoàn
dường như là đã hoạt động thành công. Kỳ kiết tập kinh điển lần
thứ 3 được tổ chức tại Ấn Độ vào thế kỷ thứ III trước tây lịch
đã có quyết định gửi 9 phái đoàn truyền giáo ra nước ngoài để truyền
bá Đạo phật[5]. Một phái đoàn do Ngài Mahinda hướng dẫn, con trai của
Đại Đế Aᠯka (A-dục) ở Ấn Độ đã đến Tích Lan. Sự thành công rực
rỡ của phái đoàn truyền giáo là chỉ trong một thời gian ngắn, một
nhóm phụ nữ năm trăm người do Anula hướng dẫn xin được gia nhập Tăng
đoàn. Sa.nghamittaa- em gái của Đại Đức Mahinda được mời đến Tích Lan
để chứng minh cho giáo đoàn Ni giới này. Cả hai giáo đoàn Tăng và Ni đã
phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và phổ biến.
Tuy nhiên vào thế kỷ thứ X, Phật
giáo ở Tích Lan bị tác động nặng nề vì những mâu thuẫn chính trị
bên trong và các cuộc xâm lược của nước ngoài; suốt thời gian đó,
các giáo đoàn đều bị tiêu diệt. Cuối cùng, một vị vua tên là
Vijayabahu đã thành lập pháp luật và trật tự trong nước và đã tha thiết
nhiệt tình phục hồi Phật giáo khỏi tình trạng suy sụp đau lòng đó. Nhận
thấy không còn một thành viên nào trong Tăng đoàn Tỳ-khưu tồn tại, ông
đã nhờ nước Miến Điện giúp đỡ để phục hồi giáo đoàn Tăng[6],
nhưng không thấy có đề cập gì đến việc khôi phục giáo đoàn ni[7]. Nếu
chư Tăng đã bị thương tổn đến nỗi giáo đoàn Tăng không còn hiện hữu
thì Ni đoàn làm sao tránh khỏi hoàn cảnh bi đát. Không có một tài liệu
nào ghi lại sự kiện vị vua này cố gắng tái thiết Ni đoàn.
Mặc dù giáo đoàn Tỳ-khưu-ni
không còn ở Tích Lan, nhưng nhiều tín nữ vẫn tha thiết tầm cầu lý tưởng
giác ngộ. Hơn nữa, thường có những bước tiến phi thường do những
người phụ nữ Thái Lan[8] và Tích Lan[9] thực hiện. Ở Thái Lan, vài nhóm
phụ nữ tiến bộ muốn tu tập, bằng lòng nhiệt thành đã vượt qua những
điều phàm tình của phụ nữ . Uy tín của một nhóm người gọi là maejis
này khá nổi tiếng.
Vào năm 1957, một nhóm phụ nữ
khác được biết như là những người silacariNi, gồm năm người tự
thọ và tuân thủ 10 giới pháp. Họ có một Ni viện ở Bangkok và mặc y
màu nâu. Một nhóm khác mặc y màu nâu sậm dưới sự hướng dẫn của một
vị Tăng tự thọ giới - Bodhiraksa– người khởi xướng cho dòng truyền
giới của riêng ông. Một nhóm khác nữa, đứng đầu là Tỳ-kheo-ni Voramai
Kabilsingh – người bắt đầu như là một maeji, nhưng sau này được
thọ giới cụ túc ở Đài Loan. Những người tu theo nhóm này mặc y màu
vàng lợt. Tôi tin rằng nhóm này sẽ có cơ duyên tốt nhất để bàn thảo
những nhu cầu của phụ nữ Phật giáo – những người đã chọn đời sống
xuất gia.
Ở Tích Lan, có một phong trào được
biết như là dasasilmaataa, có thể được đánh dấu như là những nỗ
lực tiên phong của Ni Sư Sudhammacari (1885-1937). Được sinh ra trong một gia
đình Thiên Chúa giáo ở Bentota, cô Catherine de Alwis Gunatilaka rất ngưỡng mộ
Phật giáo và muốn trở thành một Ni cô. Vì không có chư Ni ở Tích Lan,
và không có một vị Tăng nào có thể truyền trao mười giới, cô Catherine
de Alwis Gunatilaka đã đi đến Miến Điện, trải qua sự tu tập và được
thọ giới với Daw Ni Chari. Khi thọ lãnh giới pháp, cô đã nhận pháp danh
là Sudhamacari và đã thành lập Ni viện Lady Blake ở Katukele (Kandy). Ni Sư trở
về Tích Lan năm 1903. Nhiều phụ nữ từ nhiều miền khác nhau trong nước
đã đến xin thọ giớ ivới Ni Sư . Từ đó số lượng nữ tu dasasilmaataa
tăng lên. Hiện nay những phụ nữ này đáng được nam nữ cư sĩ tôn
kính và đáng nhận sự hỗ trợ từ Hội Giáo Pháp Đức Phật (Buddha
Sasana MiNistry) của chính phủ Tích Lan về những nhu cầu vật chất và
giáo dục. Một số trong nhóm nữ tu này lấy làm thoả mãn với mười giới
truyền thống này, nhưng nhiều vị khác hy vọng trở thành những vị Ni
được thọ giới cụ túc hoặc trong hay ngoài truyền thống Theravaada.
Nhiều vị lãnh đạo của các bộ
phái (Nikaaya) ở Tích Lan phản đối việc thọ giới của chư Ni và bảo
thủ cho rằng sự thọ giới này không được chấp nhận trong giới luật
của truyền thống Theravaada. Hơn thế nữa, họ còn phản đối chư
Ni thọ giới trong các truyền thống Phật giáo khác. Cũng may mắn, có một
số thành viên khác lãnh đạo của Tăng đoàn có quan điểm cho rằng phụ
nữ Tích Lan có thể thọ giới đúng pháp ở các nước, như Trung Quốc,
Triều Tiên hay Đài Loan - nơi truyền thống Ni đoàn vẫn được duy trì tương
tục [10] Một số nam nữ cư sĩ đáng kể cũng tán đồng bước tiến như
vậy và ủng hộ cho mục tiêu này.
Việc phản đối phục hồi Ni đoàn
Phật giáo dường như đã trái với tinh thần cũng như mục đích của Đạo
Phật. Hai lời phát biểu rất có ý nghĩa được tìm thấy trong hai bài
kinh đáng tin cậy, nói rằng sự hiện diện của Ni đoàn trong Phật giáo
quan trọng như thế nào và sự mất mát biết bao khi vắng mặt của nó. Lời
phát biểu thứ nhất diễn ra khi Đức Phật và du sĩ Vacchagotta[11] thảo luận.
Trong cuộc thảo luận này, Đức Phật đã khẳng định là sáu hội chúng
mà Vacchagotta đưa ra rất được mong đợi là phải nhận ra lý tưởng của
mình. Sáu hội chúng này là: Tăng, Ni, nam độc thân, nữ độc thân, nam cư
sĩ và nữ cư sĩ. Trong một bài kinh khác, có lần nói chuyện với Ma vương
(Maara), Đức Phật được nhắc lại về lời hứa của Ngài là sẽ場hị tịch (Nibbaana) khi bốn hội chúng Phật giáo
tu tập đầy đủ những pháp cần thiết được thành lập, đó là: Tăng,
Ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ 12]
Mặc dù trong truyền thống Theravaada,
nhiều tín nữ mong muốn trở thành Ni cô lại bị ngăn cản, vì do hoàn
cảnh lịch sử không cho họ thọ nhận giới pháp, còn phụ nữ trong truyền
thống Mahaayaana may mắn không bị như vậy.
Các sử gia tin rằng Phật giáo đến
Trung Quốc vào thế kỷ thứ I tây lịch[13]. Pao-Chang đưa ra một tài liệu
về nguồn gốc đầu tiên của giáo đoàn Ni ở Trung Hoa[14]. Tài liệu ghi lại
sự khổ nhọc cùng cực của việc du hành vượt qua dãy Hy-mã-lạp-sơn hoặc
phải băng qua sa mạc Trung Á. Thật là khó khăn cho chư Tăng để đi đến
thành lập giáo đoàn Tăng ở Trung Hoa, thì còn nhiều khó khăn biết bao cho
chư Ni được tồn tạitrên hành trình và thành lập đoàn thể Ni chúng ở
đó. Cuối cùng Giáo đoàn Tỳ- kheo-ni từ Tích Lan đến Trung Quốc bằng
con đường biển vào thế kỷ thứ V.
Chẳng bao lâu sau, Phật giáo đến
Trung Hoa, nhiều phụ nữ Trung Hoa ngưỡng mộ đã trở thành những vị nữ
tu sĩ. Có nhiều tranh luận về vấn đề thọ giới của phụ nữ trong giới
tu sĩ Phật giáo trước khi thành lập Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni. Một số khẳng
định là việc thành lập một Giáo Hội không thể không có sự tham dự của
chư Ni trong lễ thọ giới. Vị khác có ý kiến rằng có thể chỉ cho nữ
giới Trung Quốc thọ giới của sa-di (saama.neri). Người khác lại cho
rằng việc thọ giới cụ túc theo trong Luật Tạng cho phép chư Tăng có thể
làm lễ truyền giới cho chư Ni nếu không có Ni đoàn[15]. Vấn đề dường
như không được giải quyết này đã làm cho các vị chưa có hướng đi này
rất lo lắng.
Cuối cùng việc thọ
giới cụ túc của phụ nữ được bà Hui-Kuo chuyển giao cho ông Gunavarman
ở Kashmir, Hui- Kuo cũng là phụ nữ trở thành vị Tỳ-kheo-ni
đầu tiên ở Trung Hoa và chính bà cúng đã trở렴hành Luật Sư [16]. Có lần bà hỏi Gunavarman, có
hợp lý hay không khi phụ nữ được thọ giới mà không có sự chứng minh
của Ni đoàn, ông trả lời không có gì sai trái trong việc thọ giới này,
khi bà hỏi có gì sai phạm không khi chư Tăng truyền giới Tỳ-kheo cho chư
Ni mà không có sự tham dự của Ni đoàn, ông đáp rằng chư Tăng không có
sai phạm gì khi làm việc này. Gunavarman giải thích rằng nếu ở một nơi
đã có Ni đoàn rồi mà chư Tăng truyền giới Tỳ-kheo-ni cho chư Ni lại không
có sự tham dự của Ni đoàn, lúc đó chư Tăng có tội. Vì lúc này không
có Ni đoàn ở Trung Hoa, thì không có tội lỗi gì khi làm việc này. Đây
là giải pháp đầy trí tuệ trong phạm vi khuôn khổ của Luật Tạng.
Gunavarman - nhà truyền bá Phật
giáo thông minh, nhiệt tình không ngừng lại ở đó. Ông tiến hành tìm đủ
số lượng chư Ni để tổ chức thọ giới cụ túc. Vào năm 429, tám vị
Ni từ Tích Lan đến Trung Hoa, nhưng vẫn bị cho là không đủ số để tổ
chức một lễ truyền giới gồm có nhị bộ Đại Tăng lý tưởng[17]. Do
đó, một nhóm chư Ni khác gồm 11 vị đứng đầu là Ni Sư Devasara từ Tích
Lan đến Trung Quốc vào năm 432[18]. Trước khi qua đời ông Gunavarman còn để
lại lời di chúc ân cần về vấn đề tổ chức thọ giới với
Sa.nghavarman - vị Tăng Tích Lan– người đã hoàn thành những lời di chúc
của Gunavarman [19]. Hai nhóm Ni từ Tích Lan đến Trung Hoa đã truyền giới gồm
có nhị bộ Đại Tăng cho Ni giới lần đầu tiên ở Trung Hoa. Sử liệu
ghi rằng lúc đó có "hơn 300 vị Ni Trung Hoa được thọ Tỳ-kheo giới
với giáo đoàn Tỳ-kheo-ni của Tích Lan."[20] Khá lạ lùng, không có một
ký sự niên đại nào ở Tích Lan đề cập đến sự kiện trọng đại này.
Sự kiện này được biết đến là nhờ nguồn tài liệu Trung Hoa.
Giáo đoàn Ni đã cắm sâu gốc rễ
ở Trung Hoa vàdần dần được truyền bá đến các nước láng giềng như
Triều Tiên và Việt Nam. Năm 1992, tại một buổi tiệc thân mật được tổ
chức để tạm biệt năm vị Tăng Trung Hoa đã hoàn thành sở học của họ
ở Tích Lan, Giáo sư , Hoà Thượng W. Rahula đã đề cập đến sự mất mát
đáng tiếc về vấn đề thọ giới cụ túc của chư Ni Theravaada. Hoà
Thượng gợi ý rằng những vị dasasilmaataa có thể thọ nhận giới
cụ túc ở một trong những nước này[trung Hoa][21].
Hai bài kinh được trình bày trước
đây chỉ ra rằng sự vắng mặt hội chúng Ni giới làm cho truyền thống Theravaada
không được hoàn hảo. Giáo sư Senarat Paranavitana đã khẳng định, không
có Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, thì Giáo Hội hiện tại của Tích Lan không phải
là Giáo Hội Lớn [Mahaasa.ngha (Great Order)]. Lại nữa, việc thiếu
khả năng đáp ứng những nhu cầu chính đáng của phụ nữ tu tập theo
truyền thống Phật giáo Theravaada, làm cho Phật giáo Theravaada bị thương
tổn. Vì vậy, đó là việc cấp bách mà truyền thống Theravaada phải
đương đầu với thách thức căng thẳng này và phải mở rộng cánh cửa
cho chư Ni.
Dưới đây là những biện pháp có
thể đạt được mục đích này. Ba khả năng đầu được Giáo sư G. P. M.
Malalasekara - vị sáng lập ra Hội Phật Tử Thế Giới [World Fellowship of
Buddhists (WFB) đưa ra, khi ông kêu gọi phục hồi giáo đoàn Ni. Những đóng
góp của ông trong nỗ lực này đã được xuất bản vào năm 1934 trong nhật
báo "Những Tin Tức Hằ讧 Ngày ở
Tích Lan"[22] ( Ceylon Daily News ). Ông đề xuất sáu việc sau.
Thứ nhất, theo Kinh Niết-bàn (MahaapariNibbaana
Sutta), Đức Phật khi nằm trên giường bệnh, được ghi là đã nói với
thị giả AAnanda rằng, Tăng đoàn được phép bỏ những giới nhẹ và nhỏ[23].
Malalasekara nói, "đó là khả năng thứ nhất – một quyết định do hội
đồng đại diện Tăng đoàn để châm chước những hình thức lễ lạc
truyền thống trong việc truyền thọ giới của chư Ni."[24] Dựa vào việc
gia giảm cuối cùng của Đức Phật thì chính trong Tăng đoàn có quyền thực
hiện những sửa đổi cần thiết để phục hồi Ni đoàn bằng cách tổ
chức truyền giới không cần có sự tham dự của chư Ni. Nếu bất cứ một
vị Tăng nào tin rằng những giới khoản liên quan đến việc thọ nhận giới
pháp của chư Ni là vấn đề lớn và không nằm trong "những giới luật
nhẹ và nhỏ"묠thì vị ấy nên được mời
đến để trình bày và biện minh cho quan điểm của mình.
Thứ hai, có thể dùng lời huấn thị
mà Đức Phật đã ban hành, "Này các Tỳ-kheo, Ta cho phép các ông truyền
giới cụ túc cho chư Ni."[25] Có nhiều dẫn chứng trong các bài kinh,
ghi rằng một số giới được chính Đức Phật hiệu chỉnh, thay đổi,
hay huỷ bỏ trong một số trường hợp với những hoàn cảnh đặc biệt
khác nhau. Sự vắng bóng Tỳ-kheo-ni trong Theravaada rõ ràng là trường
hợp đặc biệt, những tài liệu trong các bản kinh trên có thể đủ lý
do để cho phép chư Tăng có thẩm quyền truyền giới cho chư Ni với lương
tâm trong sạch, không hề phạm tội theo tinh thần của luật tạng. Những
người phản đối lại việc phục hồi giáo đoàn Ni dựa trên nền tảng
của những chi tiết giới luật dường như đã phớt lờ đi lời giáo huấn
khế lý này.
Thứ ba, những cách thức đặc biệt
nào đó đã được đặt ra trong lịch sử Phật giáo, như là khi bà
Mahaapajaapatii Gotamii và những người tuỳ tùng của bà thọ nhận các giới
khoản trước khi Ni đoàn được thành lập. Thọ nhận giới pháp của Tăng
Ni Phật giáo bao gồm chủ yếu là những đệ tử mà chính họ tự nguyện
tuân giữ theo những giới điều nào đó. Việc truyền thọ giới không phải
là một cái gì truyền đạt từ người này sang người khác; hơn nữa, đó
là những giới điều mà họ chấp nhận và tuân giữ tuỳ theo động cơ của
chính họ. Việc thọ giới của các tu sĩ Phật giáo cơ bản khác nhau với
việc thọ giới của tu sĩ của các tôn giáo khác, những vị linh mục được
xem là những người trung gian giữa con người và quyền lực thần thánh.
Trong trường hợp Phật giáo, không có sự uỷ thác của quyền lực, không
có vấn đề diễn tuồng trên trái đất như sự trợ giúp của thần
thánh. Những người Phật tử tại gia ở Tích Lan chấp nhận tuân giữ 10
giới hay 8 giới trong những ngày tụng giới (poya) bằng cách tụng đọc
lại những giới điều ấy trước bàn thờ. Không có điều gì ngăn cản
phụ nữ không gìn giữ những giới luật sa-di hay cụ túc. Không thể có bất
cứ một phản đối đúng đắn nào đối với hình thức này trong việc tự
thọ giới[26].
Nếu bất cứ một trong những kiến
nghị trên của Giáo sư Malalasekera được chấp nhận, thì có thể khôi phục
được Ni đoàn trong truyền thống Theravaada. Yêu cầu cách lý giải
ở đây là phải theo nghĩa lý hơn là dựa vào văn tự của những điều
khoản trong giới luật. Có ba phương án để phục hồi Ni đoàn đã được
sáng tỏ nhờ những cuộc bàn thảo và tranh luận công cộng đã diễn ra tại
Tích Lan về vấn đề này, đặc biệt trong mười năm trước[27].
Thứ tư, nhờ những mối
quan hệ tốt đẹp và trao đổi gần gũi hơn với Trung Hoa, Triều Tiên, Đài
Loan trong những năm gần đây, và được biết chư Ni của Tích Lan đã truyền
bá đến Trung Hoa và Ni đoàn được kế thừa liên tục trong những nước
này. Vì vậy, một trong những nước này (hoặc là Việt Nam) có thảo tuyền
sang lại giáo đoàn Ni đến Tích lan, hoặc gửi một số chư Ni đến
nước đó hoặc Tích Lan gởi các giới tử đến các nước đó để thọ
giới. Gửi giới tử đi đến một trong những nước đó là một phương
pháp tốt hơn, vì họ sẽ có cơ hội trải qua sự đào luyện ở đó. Bước
hoạch định này không có tác động mạnh bằng truyền thống chư Ni không
được thọ giới cụ túc của Theravaada đã được định hình từ lâu rồi. Đó chỉ
là việc nhận trở lại Giáo đoàn Ni mà trước kia Tích Lan đã gửi đến
Trung Hoa. Điều đó giống như là nhận lại một món quà lớn mà trước
kia món quà đó đã biếu ra.
Có nhiều phương án cho chương trình
phục hồi dự định này. Vào hậu bán thế kỷ XVIII, một đoàn đại biểu
Thái Lan được mời đến Tích Lan để tái lập Giáo Đoàn Tăng và mở đầu
cho giáo hội Thái Lan[28] (Siam Nikaaya). Vào thế kỷ XIX, có hai nhóm Tăng
riêng biệt đã đi đến Miến Điện và thọ giới cụ túc tại các tu viện
ở Amarapura và Ramanna. Khi trở về, họ đã thành lập hệ phái Amarapura
vào năm 1803[29] và hệ phái Ramanna năm 1864.[30] Một sự kiện cũng khá
nổi tiếng, đó là, đôi lúc Phật giáo Tích Lan là cũng có công cứu vãn
và tái tổ chức Phật giáo ở Thái Lan và Miến Điện. Do đó không có sự
phản đối nào hợp lý khi phải nhờ sự giúp đỡ của chư Ni ở Trung Hoa
hay Triều Tiên để khôi phục Ni đoàn ở Tích Lan.
Thứ năm, nếu các vị trưởng lão
(Mahaanayakas) - các vị Tỳ-kheo lãnh đạo của truyền thống Theravaada
ở Tích Lan không chuẩn bị tư tưởng để chấp nhận sự thực của những
cộng đồng Tỳ-kheo-ni ở Trung Hoa hay ở các nước Mahaayaana khác,
thì phụ nữ Phật giáo ở Tích Lan sẽ được tự do tìm cách thọ giới
ở bất cứ một truyền thống Phật giáo mà họ thích.[31] Chư Ni đã thọ
giới cụ túc trong những truyền thống khác nên được xác nhận như những
Bhikkhunii, không nên có thái độ phân biệt nào. Những vị lãnh đạo
Theravaada ở Tích Lan không được thiếu suy nghĩ phản đối lại những
hoạt động như vậy.
Sự chọn lựa đời sống từ bỏ
thế tục để thực hành "đời sống phạm hạnh" là quyền không
thể nhượng bộ của tất cả phụ nữ Phật giáo. Không có người Phật
tử nào có thể phủ nhận quyền lợi hợp lý này của phụ nữ. Người
ta có thể phản đối lại quyền thọ giới của phụ nữ trong truyền thống
Theravaada, chứ họ không thể nào chống đối được quyền mà người
nữ được trở thành những Tỳ-kheo-ni trong truyền thống khác.
Gunapala Dharmasiri nói rằng, vì truyền thống luật thọ giới của Mahaayaana
và Theravaada căn bản là giống nhau, nếu dòng truyền thừa giới
pháp của một truyền thống bị mất, thì truyền thống kia có thể phục
hồi bằng cách vay mượn từ những nước khác - nơi mà dòng truyền thừa
giới pháp còn được bảo tồn.[32] Một học giả đáng tôn kính - Đại
Đức AAnanda Wellewatte cũng giữ vững quan điểm như vậy.[33] Đặt lại vấn
đề giá trị thọ nhận giới pháp do truyền thống khác trao truyền, thì vấn
đề đó không có đúng đắn và không cần phải biện minh nữa.
Thứ sáu, triệu tập
một hội đồng đặc biệt bao gồm những thành viên lãnh đạo của cộng
đồng Tăng-già thế giới, đại diện cho những truyền thống Phật giáo
khác nhau trên khắp thế giới. Các giới tử của Tích Lan có thể được
hội đồng đại diện này trao truyền giới pháp Sa-di-ni (saama.nerii), và cụ túc giới Tỳ-kheo-ni (Bhikkhunii). Hiện nay,
có nhiều hiệp hội Phật giáo thế giới trong hình thức này, bao gồm tổ
chức vừa mới thành lập gần đây ở Colombo. Do đó việc triệu tập hội
đồng Tăng Ni thế giới sẽ không phải là điều khó khăn.
Những người dasasilmaataa ở
Tích Lan đã cống hiến đời mình như những nữ tu theo con đường Phật
giáo, trong khi thời đại hiện nay chỉ có một vài người hết lòng đeo
đuổi giá trị tâm linh. Việc hỗ trợ để nâng đỡ nguyện vọng của những
nữ tu này sẽ động viên họ và xúc tiến các thiện sự của Phật giáo.
Như Giáo sư Jotiya Dhirasekera đã phát biểu, Phật giáo đã đóng góp nhiều
đối với việc giải phóng phụ nữ.[34] Sự đóng góp để phục hồi Giáo
đoàn Ni này đã bị tổn thương vì sự phản đối của các vị lãnh đạo
của Theravaada ở Tích Lan. Một số vị lãnh đạo của Phật giáo
xác nhận một cách hãnh diện rằng ngay từ buổi đầu Phật giáo đã đấu
tranh vì sự giải phóng nữ giới. Những lời nói của họ chỉ là sự
khoe khoang vu vơ trong bộ mặt phản đối việc khôi phục Giáo Đoàn Tỳ-kheo-ni.
Việc phục hồi giáo đoàn truyền thống của Ni giới không thể chậm trễ
nữa, vì nó tạo ra sự huỷ diệt những nguyên tắc căn bản của Bản Tuyên
Ngôn Nhân Quyền Nhân Loại (UNiversal Decleration of Human Rights).
Chú Thích
[1] Cullavagga,
part 2, Buddha Jayanti Tripitaka Granthamala (BJE), (Colombo: Janarajaya, 1977), p. 472.
[2] Tương đương với Sanskrit là
Mahaaprajaatii
[3] I.B. Horner, Women under Primitive
Buddhism (Delhi: Motilal Banarsidass, 1975), p. XXIV,
[4] Cullavagga, part 2, p. 289.
[5] Mahaava"msa, XII.1ff.
[6] UNiversity History of Ceylon,
vol. 1, part 2, p. 563.
[7] R. A. L. H. Gunawardana đã đưa ra
chứng cứ để chứng minh rằng sự tồn tại Ni đoàn Phật giáo ở Miến
Điện vào thời gian vua Tích Lan tìm sự trợ giúp của chư Tăng Miến Điện
để khôi phục Giáo đoàn Tăng ở Tích Lan. Ông nói rằng, "Vì không đầy
đủ thông tin cho vấn đề này, nó không thể cung cấp một sự giải
thích thoả đáng đối với sự vắng mặt Tăng lữ đáng ngạc nhiên hay
là sự quan tâm của người cư sĩ đối với việc phục hồi Ni đoàn"
Role and Plough: Monasticism and Economic Interest in Early Medieval Sri Lanka
(Tucson: UNiversity Arizona Press, 1979), p. 39.
[8] Chatsumarn Kabilsingh, "The Role
of Woman in Buddhism," trong Sakiyadhita: Daughter of the Buddha (Ithaca, N.Y:
Snow Lion Publications, 1989), pp. 225- 235; "The Future of the BhikkhuNii Saơgha in
Thailand," in Diana Eck, ed., Speaking of Faith: Global Perspectives on Women,
Religion, and Social Change (Philadelphia, Pa: New Society Publishers, 1987), pp.
139-148., "Mae-Ji: A Religious Minority in Contemporary Thailand," Sri Lanka
journal of Buddhist Studies, 11 (1988): 141-147.
[9] Hema Goonatilake "The Dasa Sil-
Mata Movement in Sri Lanka," Sri Lanka Journal of Buddhist Studies, 11(1988):
124-40; Paanadure Vajiraa Silmaathaa, BhikkhuNii Vamsaya (in Sinhala, Colombo
1992), pp. 370-376.
[10] Ceylon Daily News, February
6,1992.
[11] Mahaavacchagotta Sutta, Majjhima
Nikaaya, part 2 (Colombo: BJE, 1973), pp. 270-274
[12] MahaapariNibbaana Sutta, Diigha
Nikaaya, part 2 (PeradeNiya, Sri Lanka: BJE, 1967), pp. 162-166.
[13] K. W. Morgan, The Path of the
Buddha (Delhi: Motilal Banarsidass, 1986), pp. 184-185.
[14] Pao-chang, Biographies of Buddhist
Nuns, trans. Li Jung-his (Osaka: Tohokai, 1981).
[15] Morgan, Path of the Buddha, p.
63.
[16] Pao-Chang, Biographies,
pp.36-38.
[17] Cùng tác phẩm trên, p. 53-54.
[18] Cùng tác phẩm trên, p. 54.
[19] Cùng tác phẩm trên, pp. 62-63.
[20] Cùng tác phẩm trên, p. 54.
[21] Ceylon Daily News, February 6,
1992.
[22] Sao chép lại trong The Buddhist
Vesak Annual, Colombo, 1989, pp.24-28.
[23] MahaapariNibbaana Sutta, Diigha
Nikaaya, part 2, (Oxford: Paali Text Society[PTS], p. 154.
[24] The Buddhist Vesak Annual.
[không thấy tác giả đề cập đến tác giả của tác phẩm, nơi, nhà và
năm xuất bản].
[25] MahaapariNibbaana Sutta, Diigha
Nikaaya, part 2, p. 257.
[26] The Buddhist Vesak Annual.
[27] "Ven. Sanghamitta and the Order
of Nuns," Daham Ama Mahinda Commenterative Volume (in Sinhala) (Colombo;
Department of Buddhist Cultural Affairs, 1993), pp. 21-26.
[28] K. L. Hazar, History of Theravaada
Buddhism in Southeast Asia (New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers, 1982), pp.
166-174.
[29] Cùng tác phẩm trên, pp. 86-87.
[30] "On Restoration of the
BhikkhuNii Order" (ở Tích Lan), bài tham luận được trình bày ở buổi hội
thảo Tăng-già lần thứ 2, Maharagama, Tích Lan, 1988.
[31] Cùng trong bài tham luận trên.
[32] " Buddhist Monks in the 20th
Century," Vimutti Symposium of the Ramana Sect Annual Ordination Ceremony (Kalutara,
Sri lanka:1991).
[33] Anada Wellawatte, "The Life of
the Mahaayaana Bhik.su," Prajnasara Felicitation Volume (in Sinhala), pp. 250-257.
[34] Jotiya Dhirasekera, Buddhist
Monastic Discipline (Colombo: MiNistry of Higher Education Research Publication
Series, 1982), p. 141.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/sukien/021-nidoanTheravada.htm