I. ĐỊA ĐIỂM
Thiền viện Chanmyay (Chanmyay
Yeikthā Meditation Centre), nằm ngay trong lòng thủ đô
Yangon, trên trục lộ chính của
thành phố. Chanmyay là tên của HT thiền chủ. Người viết chưa đủ duyên tu ở
thiền viện này, vì trong những ngày đầu ấy, người viết muốn tìm một nơi
yên tịnh vắng vẻ để dễ bề tu tập hơn. Nhưng thật ra, thiền sinh sau khi
vào thiền viện này rồi, dầu không muốn rời thiền viện đi nữa, thì Thiền Sư
vẫn cho vào rừng thiền - một chi nhánh của thiền viện Chanmyay để tu tập.
II. THIỀN SƯ
Thiền Sư pháp danh là U Janaka
(Sayādaw U Janaka). Thông thường Ngài được tôn xưng là Hoà thượng (HT)
Chanmyay (Chem-nhê) Sayādaw, hoặc biết đến với cách tôn xưng khác là Ashin
Janakabhivamsa. Ashin là Đại Đức, Janaka là pháp danh. Bhivamsa là một
tước hiệu tôn xưng cho những vị qua được kỳ khảo hạch Phật Pháp dưới tuổi
28.
Ngài là một vị Thiền Sư rất
thoáng đạt, cởi mở, không phân biệt màu y, quốc gia, chủng tộc. Hệ phái
nào tới xin tu, Ngài đều nhận. Một trong những điểm hay mà không phải
Thiền Sư nào cũng làm được là nếu các vị thiền sinh ngoại quốc tu lâu ngày
với Ngài, và có khả năng hướng dẫn thiền sinh khác, Ngài không ngại giao
phó việc hướng dẫn thiền tập cho các vị ấy.
Hiện Ngài đang phụ trách một
phần môn Vipassanā (Thiền Quán) của trường Đại Học Quốc Tế Truyền
Bá Phật Giáo Nguyên Thuỷ (International
Theravāda Buddhist Missionary University). Ngoại trừ mùa an cư, Ngài
thường vân du hải ngoại hướng dẫn các khoá thiền. Năm nay (2006) Ngài
trên 70 tuổi, nhưng sức khoẻ vẫn còn rất tốt. Ngài nói tiếng Anh rất lưu
loát.
III. CHI NHÁNH
THIỀN VIỆN CHANMYAY
1. Phòng ốc:
Tuy là chi nhánh, thiền
viện vẫn có tên như cơ sở gốc. Đây là nơi người viết đã tu 10 ngày đầu
khi tới Miến, nên cũng biết ít nhiều về thiền viện này. Diện tích thiền
viện khá lớn, chia thành hai khu. Khu dành cho chư Tăng, Ni và Phật tử
Miến, bao gồm Chánh Điện, khu nhà bếp, nhà ăn và khoảng 80 tịnh cốc (kuti),
hay có thể gọi là liêu cũng được, vì các kuti ở đây đều lớn hơn cốc
ở Việt Nam gấp 2-3 lần. Khu dành cho chư Tăng Ni và Phật tử ngoại quốc,
bao gồm một thiền đường khá lớn có thể dung chứa khoảng 150-200 thiền sinh,
và cũng để cử hành các lễ lớn tổ chức hàng năm tại thiền viện. Lúc chúng
tôi đến, khu nhà ăn đang xây dựng ở giai đoạn cuối. Hiện nay thiền viện có
lẽ đã xây xong khu nhà bếp và nhà ăn cho thiền sinh ngoại quốc rồi.
Liêu ở đây cất bằng xi-măng,
lót bằng gỗ, khá sang trọng từ bên trong lẫn bên ngoài. Những lúc vắng
người thì mỗi vị ở một liêu riêng. Những lúc đông người thì 2 vị ở chung
một liêu. Phía trước là phòng ở, phía sau là nhà tắm, nhà tiêu và nhà phơi
y áo, bốn bề lộng gió, thoáng mát vô cùng. Các liêu đều có tên các nước,
có lẽ là do người nước đó hiến cúng, ví dụ: Japan Kuti, Malaysia Kuti,
Vietnam Kuti, v.v… cùng với một số liêu tên bằng các thuật ngữ Phật Pháp,
như Saddhā Kuti , Viriya Kuti , Sati Kuti, Samādhi Kuti, Paññā Kuti, v.v…
Ngoài rừng có nhiều bục gỗ để cho thiền sinh có thể thiền toạ vào mùa nắng.
2. Tăng chúng:
Thượng Toạ trụ trì vừa
hướng dẫn thiền sinh tu tập vừa trông nom mọi Phật sự trong thiền viện,
nên Ngài không có thời gian thong thả như các vị Thiền Sư khác ở Miến.
Thượng Toạ tên là U Rewata Sayādaw, năm nay (2006) đã 51 tuổi đời, 23 tuổi
hạ, nói tiếng Anh rất lưu loát. Trước đây Thượng toạ cũng đã từng tu ở các
trường thiền Miến, sau cùng mới quay về tu tập với HT thiền chủ Chanmyay
và được HT giao phó trông nom thiền viện. Ngài đã từng chu du nhiều nơi để
hoá đạo, có lẽ vì lẽ ấy nên rất nhẹ nhàng và thân thiện đối với chư Tăng
ngoại quốc. Tăng chúng ở thiền viện không nhiều, trên dưới 10 vị. Số còn
lại là khách tăng, thiền sinh Miến và ngoại quốc.
Vào những ngày người viết ở đó,
tăng chúng lẫn thiền sinh khoảng 50 – 60 vị. Thiền sinh có thể lên tới 100
vào những ngày nam nữ cư sĩ về thọ Bát Quan Trai Giới. Thiền viện này
người Việt ít ghé tu, chỉ vào những mùa nghỉ hè, Tăng Ni sinh Việt Nam mới
vô tu, nên những vị không biết tiếng Anh có thể gặp trở ngại khi vào thiền
viện này.
4. PHÁP MÔN HÀNH
TRÌ
1. Nhận định tổng
quát: Trường thiền này
hoàn toàn giống truyền thống trường thiền Ngài Mahāsi hoặc
Pandita, Thiền Chỉ (Samatha) và Thiền Minh Sát Tuệ, hoặc còn
gọi là thiền Quán (Vipassanā) được tiến hành một lúc, nhưng chú
trọng đến thiền Quán hơn. Theo các vị thuộc truyền thống Ngài Mahāsi
Sayādaw, Chỉ Quán song hành có thể đem đến lợi ích cho thiền sinh nhiều
hơn và do đó không nhất thiết là phải thực hành thiền Chỉ một thời gian
rồi mới qua Quán. Ở đây, vì giúp cho thiền sinh tránh tình trạng đau chân,
hôn trầm khi ngồi quá lâu, nên một giờ thiền toạ và một giờ thiền hành xen
kẽ nhau. Và dĩ nhiên, điều này cũng tuỳ thuộc vào thiền sinh nữa, nếu cảm
thấy thiền toạ phù hợp với mình hoặc ngược lại, có thể thưa với Thiền Sư
và tuỳ theo sự hướng dẫn của Thiền Sư nữa, chứ không nhất thiết là phải
theo đúng như vậy !
2. Thiền Toạ:
Thiền sinh khi thiền toạ
cũng không buộc theo một tư thế nào nhất định, tuỳ theo thói quen của
thiền sinh đó. Tuy vậy, thiền sinh được yêu cầu là lưng phải thẳng, mắt
nhắm. Thay vì để tâm nơi nhân trung hoặc nơi chóp mũi như phần lớn xưa nay
các thiền sư (Ấn Độ, Việt
Nam) hướng dẫn; ở đây, thiền
sinh để tâm nơi bụng để quán sát sự phồng xẹp của nó. Một số vị vì chưa có
khả năng theo dõi hơi thở của mình qua phồng xẹp nơi bụng, vị ấy được
hướng dẫn là để một bàn tay trên bụng để ghi nhận. Sau khi tâm có chút
lặng yên, hành giả nên tập ghi nhận phồng xẹp không gián đoạn qua sự quán
sát của tâm là đủ. Sự thật cũng khó thực hiện được những điều ‘đơn giản’
như vậy ! Sự tiến triển trong thiền quán không phải đơn giản chỉ ghi nhận
phồng xẹp của vùng bụng, mà còn phải ghi nhận sự nóng lạnh ở vùng bụng.
Có lẽ cũng nên biết là khi mình
theo pháp môn nào thì cố gắng theo sát pháp môn đó. Giả như mình chưa
chuẩn bị đủ để từ bỏ tất cả những gì mình đã học, đã biết, đã hành trì
trong quá khứ thì không nên vào, vì Thiền sư (vị Sư trụ trì, đồng thời
cũng là vị hướng dẫn thiền tập tại thiền viện, chủ trương theo sát theo
lời hướng dẫn của HT thiền chủ U Janaka Sayādaw.
3. Thiền Hành:
Trong những ngày đầu tu
tập, thiền sinh chỉ yêu cầu đi thật chậm, chân trái nhấc lên biết chân
trái nhấc lên, chân phải nhấc lên biết chân phải nhấc lên. Sau đó, thiền
sinh được yêu cầu hơn nữa là ý thức trọn vẹn khi chân phải nhấc lên, di
chuyển tới và chạm đất, và tương tự cho chân trái. Sau khi thuần thục
giai đoạn này, hành giả được yêu cầu là khi trước khi nhấc chân, mình nên
có tác ý là sẽ nhấc chân, và sau khi chân chạm đất phải ý thức rõ là chân
chạm đất như thế nào, và toàn chân ấn xuống đất để lấy đà bước tiếp như
thế nào.
Có một vị Sư ngoại quốc tu ở đó,
mỗi lần từ kuti xuống trai đường, và đặc biệt là sau khi thọ trai
xong, đoạn đường đi không quá 15 phút với tốc độ đi chậm vừa phải của một
thiền sinh ở đó, thì vị ấy đi hơn một tiếng rưỡi đồng hồ mới về tới tịnh
thất của mình. Dù nắng mưa gì vẫn không đổi.
4. Quán Tâm:
Trong khi thiền toạ hoặc
thiền hành, các trạng thái phiền não của tâm khởi lên, hành giả cần phải
lưu tâm ghi nhận các trạng thái phiền não ấy. Không cầu mong chúng mau đi,
hay ép chế, đè nén, tìm sự quên giả tạo mà can đảm đối diện với phiền não
ấy. Đồng thời không nên để tâm lang thang trong các trạng thái tâm điên
đảo mà nên cố gắng trở về với chánh niệm, tỉnh giác càng sớm càng tốt.
Mặc dầu trong sách hướng dẫn
thiền tập có ghi là thiền sinh cần phải ghi nhận sự phồng xẹp, nóng lạnh,
v.v.. của bụng, và cần niệm phồng à, xẹp à, nóng à, lạnh à, v.v… nhưng
trên thực tế, Thiền Sư không hướng dẫn kỹ phần đó khi người viết ở đó.
5. Sinh Hoạt Hằng
Ngày: Mọi hoạt động hằng
ngày cần phải chậm rãi, khoan thai và cố gắng ghi nhớ, chánh niệm, tỉnh
giác càng nhiều càng tốt. Điều này tối quan trọng đối với một thiền sinh.
Sự thật, để đánh giá thiền sinh tu tập có tiến bộ hay không có thể nhìn
vào đời sống sinh hoạt hằng ngày của thiền sinh ấy có thể biết được phần
nào, nếu không muốn nói là phần lớn !
6. Trình pháp:
Thiền sinh cách một ngày
trình pháp một lần. Cũng giống như ở thiền viện Panditarama và Mahāsi ,
một số thiền sinh ở thiền viện này có một cuốn sổ tay để ghi vắn tắt những
gì xảy ra khi thiền toạ hay thiền hành. Tôi để ý là khi thiền toạ, các
thiền sinh thỉnh thoảng lấy ra ghi hoặc sau khi xả thiền rồi mới ghi, có
lẽ là để khỏi quên mà cũng có thể là để trình bạch cho Thiền Sư một cách
rõ ràng. Nhưng điều đó không bắt buộc. Việc trình pháp tuỳ vào nhận thức
hay tâm thức của thiền sinh mà trình bày, chứ không nhất thiết những gì
suy nghĩ trong lúc toạ thiền.
Có một số thiền sinh khi trình
pháp đọc thật dài những gì vị ấy đã ghi trong sổ tay, rồi sau đó Thiền Sư
tuỳ nghi mà cho lời khuyên thích đáng, dầu là những chuyện liên hệ đến sức
khoẻ. Ví dụ thưa rằng vì ngày trước bệnh cảm nên tu không tinh tấn và
không có hiệu quả lắm. Vị Thiền Sư hỏi mỗi ngày tắm mấy lần, và có thể vì
tắm hai lần trong ngày nên dễ bị nhiễm cảm. Thế là vị ấy mỗi ngày tắm một
lần. Hoặc có thiền sinh trình bày rằng có quá nhiều vọng tưởng, gần như
không thể dừng được, nên không thể hoàn toàn tập trung vào vùng bụng được,
vị hành giả muốn khống chế chúng, không cho chúng sanh khởi. Vị Thiền Sư
bảo, không nhất thiết là khống chế, đè nén chúng. Chúng ta chỉ quán sát
chúng là đủ rồi.
7. Nghe Pháp:
Ngày không trình pháp là
ngày thiền sinh nghe pháp. Quả thật, những ngày gia công tu tập nghiêm mật,
nếu được nghe Pháp thì kết quả rất lớn. Cũng với pháp thoại đó, hành giả
có thể hiểu sâu sắc hơn nhiều so với đời sống tu tập bình thường. Pháp
thoại được HT Chanmyay Sayādaw giảng khi Ngài hướng dẫn khoá tu tại Úc từ
năm 1998, đã được thâu trong băng, và có vị phụ trách mở máy cassette.
Ngày đầu tiên đến, thiền sinh
được hướng dẫn căn bản về thiền tập cũng vẫn là lời của HT Chanmyay
Sayādaw, đã thâu sẵn trong máy. Nghiên cứu, trước tác được khuyến cáo là
hạn chế đến mức tối đa, nếu không muốn nói là không nên. Vì các điều đó có
thể gây phân tâm, xáo động rất nhiều trong tâm thức của hành giả trong khi
thiền tập. Tuy nhiên, hành giả có thể châm chước đọc sách thiền khi cần,
và dĩ nhiên điều này phải thưa và được sự đồng ý của Thiền Sư.
8. Tịnh Khẩu:
Trong không khí thiền
tập với một diện tích đất khá rộng, cây cối nhiều, không khí mát mẻ, và
với những thiền sinh ngoại quốc chưa từng quen biết nhau, nên tịnh khẩu
dường như là chuyện đương nhiên. Dĩ nhiên, cũng giống như bao nhiêu trường
thiền khác, thiền sinh đều có thể trao đổi, thưa thỉnh, và đôi khi nói
chuyện, trao đổi khi cần thiết. Trong một ý nghĩa nào đó, Tịnh Khẩu hay Im
Lặng Cao Cả, Im Lặng Thánh Thiện (Noble Silence) không có nghĩa là chỉ
khoá miệng lại mà thôi, mà còn phải nhẹ nhàng đến mức tối đa trong các
hành động, đi đứng và khi công quả nữa.
Song, không phải tất cả thiền
sinh đều hiểu vấn đề này. Trong thời gian người viết thiền tập ở đó, có
một nữ Phật tử vào mỗi sáng, thường hay quét dọn thiền đường, nhất là nơi
thờ tôn tượng Đức Bổn Sư, gây nhiều tiếng động. Điều đó phần nào làm trở
ngại sự thiền tập cho đại đa số hành giả. Mặc dầu theo quy định phải quyét
dọn thiền đường sau khi dùng điểm tâm lúc 6-7 giờ, nhưng nhiều khi tới 8
giờ vẫn còn quyét dọn. Một vị Sư ngoại quốc thiền tập rất tinh tấn, có một
ngày nọ thưa với Thiền Sư là cho phép vị ấy tu tại liêu vì những tiếng
động ấy và các Phật tử khi ra vào. Mặc dầu theo yêu cầu của thiền viện,
thiền sinh không nên ở dưới cốc mà tu tập, vì như vậy rất có thể giảm sức
tinh tấn của mình. Nhưng khi thưa cụ thể nguyên nhân, Thiền Sư vẫn chấp
nhận.
9. Khất Thực và
Thọ Trai: Vào mùa hạ chư
Tăng tại thiền viện vẫn đi khất thực lúc 8 giờ sáng.
Chư Tăng ngoại quốc không thấy mời đi khất thực chung. Vào 10 giờ
15 toàn thể chư Tăng đắp y kẹp đã xuống tới nơi, sắp thành hàng chờ đúng
10:30 đánh bảng, bắt đầu nhận cơm vài vá trước trai đường, tượng trưng cho
sự khất thực, rồi vào trai đường thọ thực. Tất cả chư Tăng đều trải toạ cụ
(còn chư Ni và nam nữ Phật tử không cần), ngồi xuống và chậm rãi lạy Phật
trong chánh niệm. Lạy Phật ở đây cũng là một hạnh tu, trước khi thọ trai,
sau khi thọ trai xong, trước và sau thiền toạ đều lạy Phật rất chậm. Cúng
dường Tam Bảo và cầu nguyện không bắt buộc, tuỳ vào hạnh của mỗi người. Ăn
xong cũng chậm rãi lạy Phật, đứng dậy lấy toạ cụ và yên lặng về liêu.
Thực phẩm ở đây rất đầy đủ, có
cả chay lẫn mặn. Nếu thiền sinh ăn chay thì các vị sắp xếp ngồi chung bàn
các vị ăn chay, và cũng tính theo hạ lạp. Thực phẩm mặn ở đây không nhiều,
mỗi ngày chỉ có chút đỉnh cá, hoặc thịt có lẽ đã được thái nhỏ, nên không
thấy dị ứng đối với các vị có truyền thống ăn chay. Nhưng đôi khi các vị
phụ trách nhà khói kho nấu một số loại như mấm ruốt hoặc các loại thực
phẩm mặn có mùi, cũng làm khó chịu đối với một số thiền sinh ăn chay. Các
vị Sư Theravāda ngoại quốc như Mỹ, Canada, Anh, Thuỵ Sĩ, Hà Lan đều ăn
chay cả.
Vị Sư phụ trách trai đường rất
tử tế đối với mọi người, không riêng gì Tăng ngoại quốc. Thức ăn vì đã
được các Phật tử sớt bát hoặc quý Phật tử công quả đã dọn sẵn trên bàn,
nhưng nếu vì để hơi xa một tí, thiền sinh lấy hơi khó, vị ấy quan sát một
vòng và chuyển giúp thiền sinh ! Thiền
sinh không được nhịn đói quá hơn một ngày. Điểm tâm có thể không ăn, nếu
như vậy thì thiền sinh phải thưa cho các vị phụ trách trai đường hoặc
Thiền Sư biết chừng.
Vào mùa hạ (và có lẽ là quanh
năm suốt tháng, tôi có hỏi vài Tăng Ni khác tại Miến), có 3 vị Tăng tại
thiền viện trông nom mọi Phật sự như phụ trách trai đường, xây dựng và một
số Phật sự như hướng dẫn Phật tử đến thiền viện chính ở Yangon khi có lễ
lạc, v.v… đều dùng chén, đĩa chứ không dùng bát như tất cả chư Tăng ở đó
và chư Tăng đến tu tập.
10. Thời Khoá Tu
Tập:
3.30: thức dậy và bắt đầu lên
thiền đường tu tập (có thể thiền toạ hay thiền hành).
5.30: điểm tâm (vào mùa đông
thì muộn hơn một chút). Vì đi bộ và phải sắp hàng chờ, nên 5.10 đã bắt đầu
đi xuống trai đường rồi.
10.30: độ ngọ. 10.00 phải xuống
thất để chuẩn bị bát, muỗng,… và đi xuống trai đường.
Ăn cơm xong có thể lên thiền
đường tu tập hoặc nghỉ ngơi đến 1.00 giờ, mới chính thức thiền tập.
5.00 – 6.00: uống nước ngọt
hoặc nước trái cây tại phòng thọ trai.
Tiếp tục tu cho đến 9.30 thì
xuống liêu nghỉ.
Trong một ngày thiền sinh có
thể chọn từ 9.30 –10.00 hoặc 3.30- 4.00 để vệ sinh cá nhân.
Nếu theo đúng thời khoá biểu
thì phải bắt đầu tu từ lúc 3.30 – 9.30 mới được nghỉ, nhưng trên thực tế,
các thiền sinh đều xuống liêu nghỉ ngơi từ lúc 9.00 tối, và có nhiều vị
xuống sớm hơn cũng không sao ! Cũng có nhiều vị lên thiền đường vào buổi
sáng hơi muộn cũng được. Tu để giải thoát là chuyện tự giác của mỗi hành
giả, nên Thiền Sư ít có khắt khe thời khoá đối với thiền sinh.
11. Di Chuyển:
Nếu mình đã vào thiền viện chính ở thành phố rồi, thì khi vô rừng thiền
này, phần lớn đều có xe thiền viện đưa. Khi muốn ra về, thiền sinh có thể
hỏi các vị phụ trách chừng nào có xe ra, mình đi ké ra tới thành phố, như
vậy rất tiện và đỡ tốn tiền taxi. Một phương tiện khác có thể đi là xe
buýt. Tuyến vào ra đều có cả, rất rẻ; nhưng khó khăn là nếu mình có hành
lý thì xách bộ từ đường chính vô tới thiền viện cũng mất 10 - 15 phút.
12. Cúng Dường:
Thiền viện chính ở thủ
đô hoặc trong rừng đều không đề cập đến thiền phí, cũng không kêu gọi
thiền sinh cúng dường. Vậy tịnh tài ở đâu để các vị lo trang trải mọi thứ
? Tôi để ý các bữa ngọ trưa hoặc điểm tâm, một là do chư Tăng, Ni, quý
Phật tử đang tu tại thiền viện hoặc các Phật tử ở phố vào sớt bát. Tên của
tín chủ cúng dường bữa ngọ trưa hoặc điểm tâm đều được ghi trên bản để chư
Tăng thầm chú nguyện. Những tín chủ cúng dường ngọ trưa thường đứng trước
cửa để sớt cơm vài vá vào bát tượng trưng trước khi chư Tăng vào trai
đường.
Sớt bát cho một bữa ngọ trai
trung bình là 50 Mỹ kim. Nếu một mình thiền sinh không đủ điều kiện dâng
cúng, có thể kết hợp với một hai vị trong trường thiền nữa. Mình có thể
thông báo cho văn phòng để văn phòng tuỳ duyên sắp xếp ngày và ai cùng
cúng với mình. Lúc rời trường thiền, thiền sinh có thể cúng dường thêm bao
nhiêu cũng được, cho các công trình xây dựng kuti, tường rào, v.v…. tuỳ
theo khả năng của mỗi thiền sinh.
13. Tài Liệu Tham
Khảo: Khi tới thiền viện,
nếu thiền sinh biết tiếng Anh thì các vị phụ trách sẽ phát cho cuốn:
Vipassana Meditation Guidelines (Những Nguyên Tắc Căn Bản Của
Thiền Quán), và cả những luật lệ, thời khoá của thiền viện. Vì là
những nguyên tắc căn bản nên rất ngắn, tôi xin dịch giúp những thân hữu
không biết tiếng Anh để tham khảo thêm.
Những vị biết tiếng Anh có thể
tham khảo thêm 8 Talks on Vipassana Meditation (Tám Bài Pháp Thoại
về Thiền Quán) của Thiền Sư viện chủ U Janaka Sayādaw, đăng trên mạng
http://www.budsas.org. Mười sáu cuộn băng về pháp tu Thiền Quán của HT
U Janaka Sayādaw chủ giảng tại Úc năm 1998 là một nguồn tài liệu rất quý
mà thiền viện dùng để soi sáng cho thiền sinh. Các vị Việt Nam đã nén với
dạng MP3, mình có thể liên hệ mượn copy để nghe thêm.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/thienvien_chanmyay.htm