- Thanh Liên dịch
Những Hóa Thân của H.H. Dudjom
Rinpoche
Đức Kyabje Dudjom
Rinpoche (1904-1987)
là một
vị thánh và Vidyadhara (Trì Minh Vương) vĩ đại của Phái Nyingma (Cổ Phái)
của Phật Giáo Tây Tạng, và được cộng đồng Tây Tạng coi là vị đại diện trực
tiếp của Guru Rinpoche, vị Phật thứ hai của thời đại chúng ta. Như vậy,
theo “Vòng Hoa Những Viên Ngọc Pha lê: Lời Cầu nguyện những Hóa Thân Thần
kỳ của Đức Kyabje Dudjom Rinpoche” thì trên thực tế, Kyabje Rinpoche là vị
thứ mười tám trong một loạt các Hóa Thân bao gồm những Đạo sư Phật Giáo vĩ
đại nhất của Ấn Độ và Tây Tạng. Đức Dudjom Rinpoche đã dâng hiến nhiều đời
để thực hiện Phật sự.
Vào thời xa xưa,
trong thời đại của Đức Phật Pranidhanaraja (Đức Phật Nguyện Vương),
Rinpoche là yogin (hành giả) Nuden Dorje Chang, bậc đã thệ nguyện
sẽ xuất hiện là vị Phật thứ Một Ngàn và là Đức Phật "Mopa Od Thaye" cuối
cùng của Hiền kiếp này. Sau đó, Ngài đã hiển lộ là Shariputra (Xá Lợi
Phất) ở Ấn Độ, đại đệ tử nổi tiếng về trí tuệ bậc nhất của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Sau đó Ngài tái sinh là Bà La môn Saraha, vị đứng
đầu trong 84 Đại Thành tựu giả của Ấn Độ, là Đạo sư của Nagarjuna (Long
Thọ) và là người truyền bá các giáo lý bí mật trong thế giới này. Hóa Thân
thứ tư là Trina Dzin (Krishnadhara trong Phạn ngữ), thượng thư tâm
linh của Vua Indrabhuti xứ Oddiyana, người đầu tiên nhìn thấy sự đản sinh
của Guru Rinpoche trong một hoa sen. Hóa Thân kế tiếp của Ngài là
Humkara, một trong Tám Trì Minh Vương ở Ấn Độ.
Hóa Thân thứ sáu
của Ngài là đại dịch giả Drogben Lotsawa ở Tây Tạng, một trong hai
mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche. Sau đó Ngài tái sinh là Mriti Jnana
(Smrtijnanakirti trong Phạn ngữ), học giả Ấn Độ đã du hành tới Tây Tạng và
cuộc đời của vị này trùng hợp với thời kỳ chuyển tiếp từ Cổ dịch (Nyingma)
sang Tân dịch (Sama). Hóa Thân thứ tám của Ngài là Rongzom Pandita
Chokyi Zangpo, người đầu tiên biên soạn những luận thuyết chính yếu
trong truyền thống Nyingma. Sau đó Ngài tái sinh là Dampa Deshek
(1122-1192), vị sáng lập Tu viện Kathok ở tỉnh Kham. Hóa Thân thứ Mười của
Ngài là Palden Lingje Repa, một trong những vị tổ của Phái Drukpa
Kagyu. Sau đó Ngài tái sinh là Chogyal Pakpa (1235-1280), vị lãnh
đạo truyền thống Sakya cai trị Tây Tạng trong thời của Kublai Khan (1).
Hóa Thân thứ mười hai của Ngài là Drum Khar Nagpa, một yogin nổi
tiếng xứ Kham. Tái sinh kế tiếp là Hepa Chojung, một đại thành tựu
giả ở miền đông Tây Tạng. Hóa Thân thứ mười bốn là Traktung Dudul Dorje
(1615-1672), một Terton (vị khám phá các Kho tàng Giáo lý) lừng danh ở
Puwo miền đông nam Tây Tạng. Sau đó Ngài tái sinh là Gyalse Sonam
Detsen, người đóng vai trò quan trọng trong sự phục sinh của Tu viện
Kathok ở tỉnh Kham.
Hóa Thân tương lai của Kyabje Dudjom
Rinpoche là Rigden Dorje Nonpo, Vua của Vương quốc Shambhala. |
Hóa Thân thứ mười sáu của Ngài là yogin vĩ
đại Dudal Rolpa Tsal, Đạo sư của Jigmed Lingpa (1730-1798). Kế đó
Ngài tái sinh là Garwang Dudjom Pawo (Dudjom Lingpa,
1835-1904), một Terton nổi tiếng ở tỉnh Kham, thường thị hiện vẻ phẫn nộ.
Hóa Thân thứ mười tám của Đức Kyabje Dudjom Rinpoche là Jigdral Yeshe
Dorje (1904-1987), bậc được coi là một yogin, học giả, và thiền sư
kiệt xuất của thời hiện đại. Yangsi Rinpoche (tái sinh của Dudjom Rinpoche)
hiện tại là Hóa Thân thứ mười chín, được gọi là Pema Osel, hay đơn
giản là Kyabje Dudjom Rinpoche Thứ Ba.
Trong những thời đại tương lai, Kyabje
Dudjom Rinpoche sẽ tái sinh là Rigden Dorje Nonpo, Vua xứ Shambhala
(vương quốc của Kalachakra), là vương quốc sẽ hiển lộ trong thế giới này
khi đúng thời. Vào cuối của Hiền Kiếp này, Kyabje Dudjom Rinpoche sẽ hiển
lộ là vị Phật cuối cùng trong Một Ngàn vị Phật, được gọi là Đức Phật
Mopa Od Thaye.
Trong tiên tri của
Urgyen Dechen Lingpa có nói rằng: “Trong tương
lai ở Tây Tạng, ở miền đông của Núi Chín Ngọn, trong cõi Phật linh thánh
của Đức Vajravarahi tự sinh, sẽ xuất hiện một Hóa Thân của Drogben, thuộc
dòng dõi vương giả và có tên là Jnana. Những hoạt động lợi lạc của vị này
phù hợp với Kim Cương thừa, mặc dù Ngài hành xử khác biệt, phi thường, như
một đứa trẻ với sự thông tuệ lạ lùng. Ngài sẽ khám phá terma mới hay bảo
tồn terma cũ. Bất kỳ ai có những mối liên hệ với Ngài sẽ được đưa
dẫn tới Cõi Ngayab Ling (Zangdok Palri – Núi
Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ).” Và
thực vậy, Dudjom Rinpoche (Jigdral Yeshe Dorje)
thuộc dòng dõi vương giả được truy nguyên từ Nyatri Tsenpo, vị vua đầu
tiên của Tây Tạng, và từ Puwoo Kanam Dhepa, vua xứ Powo.
Dudjom Rinpoche được xác nhận
là Hóa Thân của Dudjom Lingpa, một vị khám phá nổi tiếng nhiều giáo lý hay
“kho tàng” ẩn dấu (Terma), đặc biệt là những Terma có liên quan tới thực
hành Vajrakilaya. Dudjom Lingpa có ý định viếng thăm miền nam Tây Tạng để
khám phá thánh địa Pemakod, nhưng không thể thực hiện được. Ngài đã tiên
đoán rằng người kế vị ngài sẽ sinh ra ở đó và khám phá thánh địa này.
Vào buổi sáng ngày 10 tháng Sáu
năm Thủy Thìn (1904), Đức Dudjom Rinpoche được sinh ra với nhiều dấu hiệu
thật đáng kinh ngạc. Hóa Thân trước đó của Ngài là Dudjom Lingpa đã nói
với các đệ tử: “Bây giờ trong thời đại suy hoại này, hãy đi tới miền đất
ẩn mật Pemakod. Bất kỳ ai nương tựa nơi ta, hãy đi theo hướng đó! Trước
khi những người trẻ như các ngươi tới nơi thì ta, một lão già, đã có mặt ở
đó.” Điều này đã xảy ra đúng như tiên đoán. Khi họ nhận ra tái sinh của
Ngài thì Ngài đã được ba tuổi. Bởi Ngài là một hiện thân trực tiếp của
Dudjom Lingpa, Ngài có thể nhớ lại những đời trước của mình thật rõ ràng.
Gia đình Ngài có dòng dõi cao
quý, thân phụ của ngài là
Kathok Tulku
Norbu Tenzing thuộc dòng
Kathok, một tulku nổi tiếng của miền Pemakod, và thân mẫu của Ngài là
Namgyal
Drolma thuộc dòng dõi
của Terton Ratna Lingpa.
Các đệ tử hộ trì terma của
Dudjom Lingpa như
Phuktrul Gyurme
Ngedon Wangpo và Lạt ma
Thubten Chonjor ở Pemakod đã xác nhận và tôn phong Ngài.
Việc tu
hành và nghiên cứu mãnh liệt của Rinpoche
Dudjom Rinpoche đã tu học với
những Lạt ma kiệt xuất nhất trong thời đại của Ngài, bắt đầu việc tu học
với Khenpo Aten ở Pemakod. Dudjom Rinpoche được dạy đọc, viết và năm khoa
học thông thường (ngũ minh). Bất kỳ Ngài học điều gì, chỉ cần một biểu thị
đơn thuần là Ngài đã thấu suốt. Trí tuệ tỉnh giác của Ngài chói ngời như
một ngọn lửa. Ngài nghiên cứu nhiều bản văn và luận giảng, như Dom Sum (Ba
Giới Luật), Chod Juk v.v.. Lạt ma Konrab nói rằng khi mới năm tuổi, Ngài
đã bắt đầu khám phá Terma. Năm lên tám, Ngài bắt đầu nghiên cứu "Bodhicaryavatara"
(Bồ Tát Hạnh) của Santideva với Đạo sư Urygen Chogyur Gyatso, một đệ tử
riêng của Patrul Rinpoche vĩ đại (1808-1887).
Ngài tu học trong 16 năm với Phuktrul Gyurme Ngedon Wangpo, một bậc hộ trì
các giáo lý của Đức Dudjom tiền nhiệm, và có những chứng ngộ vĩ đại về các
giáo lý Dzogpachenpo (Đại Viên Mãn). Ngài nhận từ Jamyang Khyentse Chokyi
Lodro những giáo lý Kim Cương thừa (Gyud, Lung, và Men-Ngag) của "Sangwa
Nyingthig". Ngài cũng nhận “những giáo lý được khám phá lại” của Đức
Dudjom tiền nhiệm và các giáo lý Dzogchen (Đại Viên Mãn) từ Jedrung
Thinley Jampai Jungne (Dudjom Namkhai Dorje) xứ Riwoche. Ngedon Wangpo nói
với Ngài: “Terdzod tượng trưng hoạt động của Khyentse và Kongtrul. Tôi đã
ban giáo lý này năm lần và Ngài sẽ ban nó mười lần. Những giáo lý sâu xa
của các bậc tôn quý đã được dâng cúng như một mạn đà la trong tay những
bậc ‘Hộ trì Tài bảo.’ Bây giờ, như tôi đã tuân lệnh Thầy tôi, Ngài cũng
thế, xin hãy sử dụng kinh nghiệm của mình để làm lợi lạc chúng sinh.”
Trong thời niên thiếu, Dudjom
Rinpoche đã tu học tại những Đại học tu viện vĩ đại ở miền Trung Tây Tạng,
như Mindroling, Dorje Drak và Tarje Tingpoling, cũng như những tu viện ở
miền Đông Tây Tạng, như Kathok và Dzogchen. Chính tại Mindroling Ngài đã
quay trở lại để hoàn thiện sự thấu suốt truyền thống Nyingma của Ngài. Như
thế từ Đạo sư Kim Cương của Mindroling là Dorzim Namdrol Gyatso, Ngài đã
nghiên cứu các nghi lễ, mạn đà la, những bài ca, vũ điệu và âm nhạc của
Terdak Lingpa, cùng với nhiều giáo lý khác. Ngài cũng nhận từ nhiều vị
Thầy vĩ đại khác tất cả những giáo lý của Phái Nyingma.
Từ Togden Tenpa, Ngài nhận quán
đảnh (wang) và sự truyền dạy (lung) của "Dzogchen Nyingtig
Yabshi", là dòng của Khenpo vĩ đại Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima. Từ
Jedrung Rinpoche xứ Riwoche, Ngài nhận sự
truyền dạy “Kangyur”, "Dam Ngag Dzod", mười bảy tantra "Sangchen Ngepai",
"Nyingthig Yabshi", và v.v.., cũng như tất cả các giáo lý của Dzogpachenpo
(Đại Viên Mãn). Ngài nhận đầy đủ những giáo lý này và được coi là trưởng
tử tâm yếu của vị Thầy của Ngài. Từ Tulku Kunzang Thekchog Tenpai Gyaltsan,
Ngài cũng nhận nhiều giáo lý sâu xa và quan trọng. Từ Ngagtsun Gendun
Gyatso, Rinpoche nhận tất cả những giáo lý của Pema Lingpa, "Dzod Dun" (Bảy
Kho tàng của Longchenpa, 1308-1363), trong số nhiều giáo lý khác.
Hơn nữa, từ Khenpo Jamde vĩ đại,
Pande Odzer (đệ tử của Mipham Rinpoche, 1848-1912), Rinpoche đã nhận "Nyingma
Kama", các quán đảnh "Kagyed",
"Lama
Gongdu" của
Sangye Lingpa và "Sangwa
Nyingpo" theo truyền thống Zur; cũng như giáo khóa "Osel Sangwa Nyingthig".
Ngài cũng nhận nhiều luận giảng tantra như những luận giảng vĩ đại của
chính Mipham, "Nyingthig Yabshi", và v.v.. Rinpoche coi Khenpo Jamde như
Lạt ma thứ hai tốt lành nhất của Ngài và thọ nhiều giới nguyện Pratimoksha
(Biệt giải thoát), Bồ Tát và Kim Cương thừa từ vị Thầy này. Ngài cũng nhận
những giáo lý từ các bậc vĩ đại là đệ tử của Khenpo vĩ đại Nyoshul Lungtok
Tenpai Nyima: Khenpo Ngawang Palzang, Chadral Sangye Dorje, Lama Urgyen
Rigdzin, Kathok Chagtsa Tulku, Pulung Sangye Tulku, Khenpo Ngawang Palzang,
Chadral Sangye Dorje, Lama Urgyen Rigdzin, Kathok Chagtsa Tulku, Pulung
Sangye Tulku, và Gyurme Phendei Ozer, trong số những vị Thầy khác. Ngài
nhận những giáo lý từ các Đạo sư này và cũng ban giáo lý cho các ngài.
Dudjom Rinpoche nói rằng khi
còn rất trẻ, Ngài luôn luôn có những linh kiến khác nhau, và duyên nghiệp
khám phá những kho tàng sâu xa đã thức giấc nơi Ngài. Năm 13 tuổi, Ngài
gặp Guru Rinpoche (Yab-Yum) trong thân tướng con người, và sau khi nhận di
sản kế thừa của một vị Thầy phi-nhân tự sinh, các Dakini trí tuệ đã ban
tặng Ngài những tờ giấy màu vàng và Ngài đã ghi lại những giáo lý kho tàng
tâm này.
Những Chứng
ngộ vĩ đại của Rinpoche
Dudjom
Rinpoche thực hành rất nghiêm nhặt. Ngài đi tới một nơi bí mật được gọi là
Kenpa Jong (hay Phuntsok Gatsel), và đã thành tựu Dorje Phurba (Vajrakilaya)
của "Dudjom Namchag Pudri". Tại Buddha Tse Phuk, Rinpoche thực hành
Tse-Drup và Tse-chang của Ngài đã sôi lên. Ngài đã nhận thêm những dấu
hiệu tốt lành khi thực hành gongter (kho tàng tâm) của Dudul Drollo. Khi ở
Paro Tak-Tshang (Hang Cọp), Dudjom Rinpoche đã khám phá lại "Pudri Rekpung",
"Tsokye Thugthig" và "Khandro Thugthig" mà Ngài đã ghi chép những phần
chính yếu. Tóm lại, trong khi thực hành ở tất cả những thánh địa quan
trọng này, Rinpoche luôn luôn kinh nghiệm những dấu hiệu thành tựu.
Những
Tác phẩm của Rinpoche
Dudjom
Rinpoche nổi tiếng khắp thế giới là một tác giả và học giả sáng tác rất
nhiều. Các tác phẩm của Ngài lừng danh vì sự hiểu biết có tính chất bách
khoa, đề cập tới mọi ngành truyền thống của việc nghiên cứu Phật Giáo, bao
gồm thi ca, lịch sử, y học, chiêm tinh và triết học. Là tác giả của những
bài thơ tràn trề cảm hứng về cái đẹp làm rung động lòng người, Ngài có
thiên tài đặc biệt khi diễn tả ý nghĩa và sự chứng ngộ Dzogchen với vẻ
trong sáng như pha lê.
“Tuyển Tập” (Sungbum) của Ngài
gồm có hai mươi lăm quyển, không bao gồm đầy đủ những tác phẩm của Ngài.
Trong số các tác phẩm được đọc nhiều nhất của Ngài có “Những Nền tảng của
Phật Pháp” và “Lịch sử của Phái Nyingma” là những quyển sách Ngài đã biên
soạn ngay sau khi tới Ấn Độ. Những tác phẩm này hiện đã được Gyurme Dorje
và Matthew Kapstein dịch sang Anh ngữ và được Wisdom Publications xuất bản,
trong khi đó vị đại diện tâm linh người Trung quốc của Ngài là Lạt ma
Sonam Chokyi Gyaltsan (Guru Lau Yui-che) với sự trợ giúp của Ming-chu
Tulku cũng đã dịch sang tiếng Trung quốc và được Secret Vehicle
Publications xuất bản tại Hồng Kông và Đài Loan.
Phần quan trọng và chính yếu
khác trong công trình của Ngài là việc hiệu đính, sửa chữa và biên tập
nhiều bản văn cũ và mới, bao gồm năm mươi tám quyển là toàn bộ Những Giáo
lý Kinh điển của Phái Nyingma (“Nyingma Kama”), một đề án mà Ngài bắt đầu
năm 74 tuổi, giống như Jamgong Kongtrul đã tuyển tập các giáo lý Terma. Tủ
sách riêng của Ngài gồm tuyển tập to lớn nhất những bản thảo và các pho
sách quý báu ở bên ngoài Tây Tạng.
Việc Truyền bá Giáo lý của
Rinpoche
Dudjom Rinpoche là người duy
nhất nhận lãnh sự truyền dạy của tất cả những giáo lý hiện hành của truyền
thống Nyingma vô cùng phong phú. Đặc biệt Ngài nổi tiếng là một Terton (vị
khám phá kho tàng) vĩ đại. Hiện nay, các Terma của Ngài được giảng dạy và
thực hành rộng rãi và Ngài cũng là người trình bày quan trọng giáo lý
Dzogchen. Thực vậy, Ngài được coi là hiện thân sống động và là vị đại diện
của Guru Rinpoche. Là một Đạo sư của các Đạo sư, Ngài được các Lạt ma lãnh
đạo Phật Giáo Tây Tạng thừa nhận là có năng lực và sự ban phước vĩ đại
nhất trong việc truyền đạt bản tánh của tâm, và các Lạt ma này đã gởi đệ
tử của mình tới Ngài khi chuẩn bị cho sự trực chỉ tâm này. Dudjom Rinpoche
là bậc Thầy của hầu hết các Lạt ma xuất chúng còn sống hiện nay.
Như Đạo sư của Ngài đã tiên
đoán, Rinpoche đã ban "Rinchen
Terdzod" ("Kho
tàng các Terma Quý báu") mười lần, "Pedling Cho Kor" của Pema Lingpa ba
lần, "Kangyur" và "Nyingma Gyudbum", Drupwang của "Kagyed",
"Jatson Podruk", quán đảnh và sự truyền dạy viên mãn của "Nyingma Kama",
cũng như những giáo lý phù hợp với truyền thống Terma ("Dudjom Tersar")
của riêng Ngài, và vô số những giáo lý quan trọng khác.
Khu
vực hoạt động chính yếu của Ngài là miền Trung Tây Tạng, ở đó ngài duy trì
truyền thống Mindroling, và đặc biệt là tại Pema Choling và những trụ sở
khác của Ngài trong các miền Kongpo và Powo miền nam Tây Tạng. Tại Pemakod,
Rinpoche đã thiết lập nhiều tu viện mới và hai học viện cho Gelong (các
tu sĩ) và Ngagpa (yogi). Tại miền Kongpo, Ngài đã tái thiết Thadul Buchu
Lhakhang và ở gần đó Ngài xây dựng lại tu viện Zangdok Palri. Ngài cũng
xây mới trung tâm Kim Cương thừa Lama Ling. Dudjom Rinpoche nổi tiếng khắp
Tây Tạng vì những thành tựu tâm linh chói ngời, những hoạt động Bồ Tát
tràn đầy bi mẫn, cũng như bởi sự uyên bác vô song của Ngài.
Khi rời khỏi Tây Tạng, Dudjom
Rinpoche Dudjom Rinpoche định cư tại Kalimpong ở Ấn Độ năm 1958, và sau đó
tại Kathmandu, Nepal năm 1975. Khi nền văn hóa Tây Tạng đang ở trong giai
đoạn khó khăn, bằng những giáo lý và tác phẩm của Ngài, Rinpoche đã đóng
một vai trò quan trọng trong việc phục hưng nền văn hóa ấy trong cộng đồng
người tị nạn. Ngài đã thiết lập nhiều cộng động trọng yếu gồm những hành
giả ở Ấn Độ và Nepal.
Tại Tsopema (Rewalsar), Ngài đã thiết lập một trung tâm nhập thất; tại
Darjeeling, Rinpoche đã thiết lập Tsechu Gompa; tại Orissa, Ngài thành lập
Dudul Rabten Ling; và tại Kalimpong, Rinpoche đã sáng lập Tu viện Zangdok
Palri. Gần Đại Bảo Tháp ở Boudhanath, Nepal, Rinpoche đã xây dựng Dudjom
Gompa. Ngài cũng tích cực khuyến khích việc nghiên cứu truyền thống
Nyingma tại Học Viện Tây Tạng dành cho Những Nghiên cứu Cao cấp ở Sarnath.
Ở những nơi khác trong thế giới,
Dudjom Rinpoche cũng xúc tiến những Phật sự to lớn. Ngài đã thành lập
nhiều trung tâm Giáo Pháp ở phương Tây, trong đó có Dorje Nyingpo và
Orgyen Samye Choling ở Pháp, Yeshe Nyingpo và Orgyen Cho Dzong ở Hoa Kỳ.
Trong hơn mười lăm năm cuối cùng của đời Ngài, Dudjom Rinpoche đã dâng
hiến rất nhiều thời gian cho việc giảng dạy ở Tây phương, ở đó Ngài đã
thành công trong việc củng cố truyền thống Nyingma. Trong chuyến du hành
khắp thế giới lần đầu tiên của Ngài vào năm 1972, Dudjom Rinpoche đã viếng
thăm trung tâm của vị đại diện tâm linh người Trung Hoa của Ngài là Lạt
ma Sonam Chokyi Gyaltsan ở Hồng Kông và cũng tới thăm Luân Đôn theo lời
mời của Sogyal Rinpoche.
Đời sống gia đình của Rinpoche
Kyabje
Dudjom Rinpoche đã thị hiện như một gia trưởng và kết hôn hai lần. Ngài
lập gia đình lần đầu với Sangyum Kusho Tseten Yudron và có sáu người con,
gồm hai gái và bốn trai. Trưởng nữ của Ngài là Dechen Yudron, hiện ở Lhasa,
Tây Tạng và đang chăm sóc trụ sở Lama Ling của Kyabje Dudjom Rinpoche ở
Kongpo. Trưởng nam của Ngài là
Kyabje Dungsay Thinley Norbu
Rinpoche.
Cũng như cha, Thinley Norbu Rinpoche là một học giả và Đạo sư Nyingma vĩ
đại và là thân phụ của Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche III. Thinley
Norbu Rinpoche là hiện thân của Kunkhyen Longchen Rabjam (Longchenpa
1308-1363),
cũng là tái sinh của Terton Drimed Odser, trưởng nam của Dudjom Lingpa.
Trong thời niên thiếu, Thinley Norbu Rinpoche đã tu học chín năm tại Tu
viện Mindroling và ngoài thân phụ ra, ngài đã nhận nhiều giáo lý từ nhiều
bậc Thánh vĩ đại khắp Tây Tạng. Hiện Thinley Norbu đang ở New York. Con
trai thứ hai của Dudjom Rinpoche là Dola Tulku Jigmed Chokyi Nyima
Rinpoche. Dòng phái chính yếu của vị tulku này là Sakya, và ông là thân
phụ của Kyabje Dudjom Yangsi Rinpoche (tái sinh của Dudjom Rinpoche). Con
gái thứ hai của Dudjom Rinpoche là Pema Yudron, sống gần Dola Rinpoche ở
Qinghai (Thanh Hải). Con trai thứ ba của Ngài là Pende Norbu cũng là một
tulku, hiện sống ở Nepal. Con trai thứ tư là Dorje Palzang, học tập ở Bắc
Kinh vào cuối thập niên 1950 nhưng không may bị sát hại trong cuộc Cách
Mạng Văn Hóa.
Kyabje Dudjom Rinpoche lập gia đình lần thứ hai với Sangyum Kusho Rikzin
Wangme, và có ba người con, gồm một trai và hai gái. Trưởng nữ là Chimey
Wangmo và thứ nữ là Tsering Penzom. Con trai của Ngài là Shenphen Dawa
Norbu Rinpoche hiện đang truyền bá giáo lý của thân phụ tại Châu Âu và Hoa
Kỳ.
Rinpoche thị
tịch
Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, bậc đã trải qua một cuộc đời bao gồm những
hoạt động của một trăm Terton (vị khám phá kho tàng), đã nói rằng hoạt
động Mopa Od Thaye (Hóa Thân tương lai của Dudjom Rinpoche, là vị Phật
cuối cùng của Hiền Kiếp này) sẽ bao gồm hoạt động của một ngàn vị Phật.
Nhờ năng lực Bồ đề tâm và những lời nguyện của riêng Ngài, bậc vĩ đại này
sẽ có nhiều đệ tử và thực hiện mọi hoạt động của tất cả những đời trước
của Ngài. Giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mặc dù đã Giác ngộ, Đức Phật
đã thị hiện hoạt động huyễn hóa của cái chết vì lợi lạc của chúng sinh,
Đức Kyabje Dudjom Rinpoche cũng nhập Đại Niết bàn vào ngày 17 tháng Một
năm 1987.
Kyabje Dudjom Rinpoche thứ Ba
Trước khi Kyabje Dudjom Rinpoche thị tịch,
Ngài nói rằng: “Ta sẽ đi Trung quốc, và ta sẽ tái sinh trong gia đình của
ta.” Quả nhiên như thế, việc tiên tri về sự tái sinh của Ngài hoàn toàn
xảy ra như dự dịnh. Tenzin Yeshe Dorje - Kyabje Dudjom Yangsi Rinpoche -
sinh ngày 22 tháng 7 năm Hỏa Ngọ thuộc Chu kỳ Rabjung thứ 17 (nhằm ngày 9
tháng 10 năm 1990) tại Kyegudo (hạt Yuesue thuộc Tỉnh Thanh Hải, Trung
Quốc) trong gia đình của chính con trai của Kyabje Dudjom Rinpoche là Dola
Tulku Jigmed Chokyi Nyima Rinpoche, và vợ của ông là Pema Khandro. Khi
thân mẫu của Yangsi Rinpoche mang thai ba tháng, một hôm bà nhìn thấy một
cầu vồng xuất hiện trên ngôi nhà của họ và bà biết đó là một dấu hiệu tốt
lành. Từ lúc ấy, nhiều cầu vồng xuất hiện với họ, và thậm chí một vài cầu
vồng còn xuất hiện trong phòng.
Sau khi Yangsi Rinpoche được sinh ra, nhiều
đại Lạt ma của những truyền thống khác nhau tới thăm Ngài. Một vài vị nói
rằng Ngài phải là một tulku của dòng Sakya, trong khi những vị khác nói
rằng Ngài có thể là một tulku của Gelugpa. Lần đầu tiên, Yangsi Rinpoche
được vị Terton vĩ đại và Dakini trí tuệ Tare Khandro (Tare Lhamo), con gái
của terton vĩ đại Aphang Terton ở Golok, xác nhận là tulku (Hóa Thân) của
Kyabje Dudjom Rinpoche. Tiên tri xuất hiện với nữ Terton này trong những
bài thơ viết bằng chữ Dakini mà bà đã dịch sang chữ Tây Tạng. Sau đó một
Lạt ma Nyingma khác tên là Ngaden Tulku viết một bài mô tả những sự kiện
đã xảy ra.
Sau đó, Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche
III tới thăm Yangsi Rinpoche ở Kyegudo và ban cho Ngài nhiều lễ nhập môn
quan trọng. Dzongsar Rinpoche cũng ban cho Ngài danh hiệu “Pema Osel”, có
nghĩa là Liên Hoa Quang (Ánh sáng Hoa Sen}. Trong lễ nhập môn và sau đó,
người ta nhìn thấy ba lớp cầu vồng trên mái nhà của song thân Ngài, và
chúng được coi là một dấu hiệu hết sức tốt lành.
Sau đó, một tulku từ Tu viện của Dola
Rinpoche mang lá thư của Tare Khandro tới cho Kyabje Chadral Sangye Dorje
Rinpoche ở Pharping, Nepal. Vị Thầy này cũng xác nhận Yangsi Rinpoche là
tulku của Kyabje Dudjom Rinpoche. Yangsi Rinpoche được Kyabje Chadral
Rinpoche ban tặng thêm danh hiệu "Sangye Pema Shaypa Drodul Rigdzin
Thinley Drupaydey" qua một bài cầu nguyện trường thọ. Sau đó, Kyabje
Chadral Rinpoche viết thêm một lá thư để tham khảo ý kiến của Kyabje
Dungsay Thinley Norbu Rinpoche ở New York, và vị Thầy này cũng có ý kiến
giống như Kyabje Chadral Rinpoche. Kyabje Dungsay Thinley Norbu Rinpoche
cũng tới Chengdu (Thành Đô), Sichuan (Tứ Xuyên) để gặp Yangsi Rinpoche vào
năm 1993.
Kể từ đó, nhiều đại Lạt ma đã xác nhận
Yangsi Rinpoche là tulku của Kyabje Dudjom Rinpoche, kể cả H.H. Minling
Trichen Rinpoche, H.H. Penor Rinpoche (vị Lãnh Đạo hiện thời của Phái
Nyingma), H.H. Sakya Trizin Rinpoche, Shechen Rabjam Rinpoche và Kathok
Situ Rinpoche, trong số những Lạt ma cao cấp khác của Phật Giáo Tây Tạng.
Một sự kiện tốt lành nhất đã xảy ra vào
ngày 25 tháng Mười Một năm 1994 tại Kathmandu, Nepal. Chính vào ngày
Lha Bab Duchen (ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ thiên giới trở về sau
khi ban giáo lý cho thân mẫu của Ngài), Yangsi Rinpoche, tulku của Kyabje
Dudjom Rinpoche II đã được đăng quang. Một hội chúng 12.000 người đã tham
dự buổi lễ tại Godavari, thánh địa của Vajrayogini. Chính Kyabje Chadral
Rinpoche đã chủ tọa buổi lễ đăng quang kéo dài tám giờ, cùng với H.H.
Penor Rinpoche, Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche, Shechen Rabjam
Rinpoche, Kathok Situ Rinpoche và nhiều Lạt ma Nyingma hiện tại khác.
Kyabje Dudjom Yangsi Rinpoche ngồi yên lặng như một pho tượng suốt buổi lễ.
Kyabje Chadral Rinpoche nói với Dola Rinpoche, thân phụ của Yangsi
Rinpoche rằng thật là kinh ngạc và thậm chí thật phi thường khi một đứa
trẻ 4 tuổi lại có thể ngồi như thế trong khi chính Chadral Rinpoche thì
không thể làm được. Thực vậy, bất kỳ ai nhìn thấy Yangsi Rinpoche cũng sẽ
không thể không tin rằng Ngài là một hiện thân linh thánh, tự thân sự hiện
diện của Ngài đã có một năng lực để giải thoát chúng sinh. Chính vị tiền
nhiệm của Ngài là Dudjom Lingpa đã tiên tri rằng “chỉ nhờ nhìn thấy,
nhận biết, xúc chạm, và kinh nghiệm với Ngài mà hàng tỉ người sẽ được giải
thoát, và họ sẽ được tái sinh vào Vương quốc Shambhala.” (2)
Các Đạo sư của Yangsi Rinpoche gồm có
Bhakha Tulku, Urgyen Chemchok Rinpoche và Khenpo Nyima Dorje ở Tu viện
Kathok. Ngài cũng được nhận nhiều lễ nhập môn và giáo lý quan trọng từ
những Đạo sư vĩ đại như Kathok Moktsa, Gonjo Tulku Urgyen Chemchok,
Dungsay Thinley Norbu Rinpoche, Dzongsar Jamyang Khysentse Rinpoche, và từ
Chadral Rinpoche, Lạt ma gốc (Bổn Sư) của Ngài.
[Bài này được biên soạn với sự thừa nhận
của những nhân vật và bài viết sau đây:
“Lịch sử của Tinh túy Bí mật Dzogchen, Tiểu
sử của các Trì Minh Vương của Dòng Truyền thừa” trong Ngọn Đèn của sự Giải
thoát, trang 1-5 (1988) của Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje.
“H.H. Dudjom Rinpoche (1904-1987)” trong
The Middle Way (Trung Đạo), Quyển 62, Số 1 (Tháng năm 1987), trang 25-28
của Gyurme Dorje. “H.H. Dudjom Rinpoche (1904-1987)” trong Vajradhatu Sun,
Quyển 8, Số 3 (Tháng Hai / Ba, 1987), trang 1-3.
“H.H. Dudjom Rinpoche viên tịch”, trong
Snow Lion, Mùa Xuân, 1987, trang 3.
Các cuộc phỏng vấn Bhakha Tulku
Rinpoche ở Pharping (Yang Leshod), Nepal vào ngày 18 tháng Chín, 1997.]
Nguyên tác:
-
“The Life Story of
Kyabje Dudjom Rinpoche (1904-1987)”
http://rangjung.com/authors/Dudjom_Rinpoche.htm
- “A Short
Account of Kyabje Dudjom Rinpoche The Third and His Past Incarnations”
http://www.dudjomba.org.hk/issue1/english/e15.html
Tham
khảo:
- “His
Holiness Dudjom Rinpoche”
http://www.simhas.org/dudjom.html
- “His Holiness Dudjom Rinpoche”
http://www.vairotsana.org/history/dudjomrinpoche.htm
Bản dịch
Việt ngữ của Thanh Liên
Chú
thích:
(1)
Kublai Khan
(Kubla Khan 1216-1294): vị sáng lập triều đại Mông Cổ và là người chinh
phục Trung Hoa; cháu của Thành Cát Tu Hãn.
(2)
Theo truyền thống
của Phật Giáo Tây Tạng, khái niệm Shambhala có ba ý nghĩa. Theo ý
nghĩa bên ngoài của nó, Shambhala là một vị trí địa lý, một địa điểm tràn
đầy nguồn mạch cảm hứng tâm linh, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy
Tantra (Mật điển) Kalachakra (Tantra Bánh Xe Thời gian). Theo ý nghĩa nội
tại, Shambhala là Pháp hay Luân xa Tim, nằm ở vị trí trái tim của tất cả
chúng sinh. Nó là biểu tượng của tâm, làm viên mãn bộ ba gồm thân, ngữ và
tâm. Theo ý nghĩa bí mật của nó, Shambhala là Tathagatagarbha (Như Lai
tạng, Phật Tánh), là cốt tủy của mọi sự. Nó siêu vượt sự hiện hữu và
không-hiện hữu, và là nền tảng của sinh tử và Níêt bàn. Theo Tantra
Kalachakra, trong Thời đại Tối ám này, Lala-Desum (Ba Chúa tể của chủ
nghĩa Duy Vật, cụ thể là Chúa tể của Thân, Chúa tể của Ngữ và Chúa tể của
Tâm) sẽ bành trướng năng lực và sự cám dỗ của họ, nô lệ hóa tâm thức con
người bằng chủ nghĩa duy vật tâm lý và tâm linh. Cuối cùng, khi Shambhala
được thừa nhận, nói cách khác, khi chúng sinh bắt đầu thấu hiểu chính mình
và khi Phật Tánh chói ngời, Vua của Shambhala là Rigden Dorje Nonpo sẽ
tiến hành cuộc chiến tranh chống lại và điều phục Lala-Desum, khiến cho
những kế hoạch của Ba Chúa tể của Chủ nghĩa Duy Vật trở nên không còn
thích hợp và những giáo lý của Tantra Kalachakra sẽ được chứng ngộ.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/tieusu&hoathanHH_Dudjom_Rinpoche.htm