Chùa
Trúc Lâm ở về phía tây nam cách thành phố Huế khoảng 5km, tọa lạc trên
đỉnh đồi Dương Xuân Thượng thuộc làng Thuận Hòa, xã Thủy Xuân, huyện
Hương Thủy.
Đồi Dương Xuân Thượng nằm
lọt thỏm giữa những ngọn đồi và núi bao quanh. Phía bắc giáp dốc Cầu Lim
và đàn Nam giao; phía nam giáp đồi lăng mộ cụ thượng thư Hồ Đắc Trung và
vùng núi Ngũ Tây, Thần Phù, Phú Bài; phía đông có núi Thiên Thai và vùng
núi đá vôi và phía tây có đồi Thiên An, núi Kim Phụng mà xa hơn là dãy
Trường sơn Nam. Sườn đồi Dương Xuân hình vòng cung , dưới chân đồi có
khe suối uốn khúc chảy từ hướng nam bắc vòng qua dưới Cầu Lim vào địa
phận Dương Xuân Hạ trước khi đổ ra sông Hương.
Cách đây hơn nửa thế kỷ về
mùa mưa suối chảy xiết nước đổ ầm ầm, đến mùa khô hanh nước cạn dần,
suối trở thành khe nước trong vắt ngọt lịm có thể thấy đá cuội dứới lòng
khe và những đàn cá nhỏ tung tăng rượt đuổi nhau. Hai bên bờ suối là một
dãi cát trắng phau nhất là ở trước mặt tiền của chùa, còn ở nơi khác thì
cát chen lẩn với đá cuội đủ màu sắc (từ đen tuyền cho đến trắng bạch,
xanh ngọc, xám, nâu vàng tím…) to nhỏ tròn lép hay có những hình thù góc
cạnh khác thường trông rất lạ mắt đúng là:
Trước mặt bờ khe phơi
cát trắng
Sau lưng chòm núi rợp
cây xanh.
Đến thập niên 60 thế kỷ
trước, sư ông trù trì chùa Trúc Lâm là Hòa thượng Thích Mật Hiển cho ủi
san bằng khu đất trước cổng chùa bên dưới chân đồi và đào sâu xuống
thành một cái hồ hình chữ S. Sư ông còn đắp một con đường đi vòng quanh
hồ, hai bên bờ trồng trúc, tre la ngà, dương liễu. Mé phải đầu con đường
thiền hành này sư ông có cho dựng một cột đá có khắc chữ hình như là ba
chữ Trúc Lâm Tự. Lâu ngày cột đá đổ xuống không rõ tấm bia nay còn hay
đã mất.
Gần một thế kỷ khi mới lập
chùa Trúc Lâm, chổ đó chỉ là một cái am lá thô sơ nằm trong một khu rừng
hoang vắng rậm rạp tre trúc dày đặc. Chung quanh am là đồi núi khe suối
chia cắt, theo đường chim bay thì từ kinh đô đến chùaTrúc Lâm còn xa hơn
chùa Tra Am của sư Viên Thành ở dưới chân núi Ngự Bình. Ít người đến
được nơi đây hoặc muốn tới phải băng rừng lội suối vạch lau sậy đi theo
lối mòn của tiều phu hay thợ săn.
Đồi Dương Xuân là đất bìa
rừng của dãy Trường Sơn, đứng trên núi Ngự Bình hay trên đỉnh Thiên Thai
nhìn về phía tây là có thể định vị đỉnh đồi Dương Xuân Thượng nếu như có
một tiều phu nào đó đốt củi làm than trên đó.
Tồ khai sơn chùa là Thiền
sư Giác Tiên, câu chuyện ngôi chùa được thành lập là một hạnh duyên cực
kỳ lý thú :
Nguyên vào mùa xuân năm Ất
Mùi (1895) triều Thành Thái, chùa Phổ Quang ở dốc Bến Ngự càng ngày càng
hư hỏng. Theo tương truyền là một thảo am của ông Nguyễn Hữu Hào (Đôn
Hậu Công Thần Trấn Thủ sinh năm 1642 mất năm 1712 tức anh ruột của
Nguyễn Hữu Cảnh ngưởi khai sinh ra thành phố Saigòn) tác giả của một
truyên thơ bằng chữ Nôm truyền đời đó là truyện Song Tinh (một tác phẩm
văn học cổ nước ta trước cả truyện Hoa Tiên và truyện Kiều hơn một thế
kỷ). Lúc ấy, tự trưởng là Chánh Động Đại sư đem ngôi chùa cúng dường cho
đại lão hòa thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu. Bấy giờ có một tỳ kheo ni là
bà Hồ Thị Nhàn người làng Chuồn ( An Truyền, Phú Vang, Thừa Thiên) con
ông Hồ Đắc Tuấn và bà Công Nữ Thức Huấn, cháu ngoại của Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm. Bà sinh năm 1863 kết duyên cùng ông Nguyễn Đôn Lý, sau ngày
chồng mất bà xuất gia thụ giáo với hòa thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu
(1898) pháp danh Thanh Linh hiệu Diên Trường. Bà xin phép đại lão hòa
thượng được trùng tu chùa Phổ Quang. Điện Phật, cửa chùa, nhà tăng,
buồng bếp, ảnh tượng, đồ thờ được sửa sang trang nghiêm đầy đủ. Bà lại
đem chuyện đó tâu lên với đức Thái hoàng Thái hậu Trang Ý Thuận Hiếu xin
ban cho hai mẫu ruộng chi dùng vào việc đèn hương… Đấy cũng là thời điểm
đang mở đường xe lửa chạy ngang qua dứơi chân đồi của chùa Phổ Quang,
nơi ấy trở nên thị tứ ồn ào đông đúc, dân cư tụ tập, chơ búa ghe thuyền
tấp nập… nên sư bà Diên Trường tìm đường rẻ lối tới chốn sơn lâm cùng
cốc xa hơn lập một thảo am khác để tiếp tục tu hành. Duyên lành đã hạnh
ngộ trên đỉnh đồi Dương Xuân là vậy, khi thảo am đã xong sư bà Diên
Trường mời sư Giác Tiên về làm trụ trì và sư cũng là tổ khai sơn của
chùa Trúc Lâm ngày nay.
Trước khi về nhận chùa, sư
Giác Tiên đã cùng sư cụ Diên Trường du hành đó đây. Khi đến Trúc Lâm Yên
Tử (một trung tâm Phật Học dứơi triều đại nhà Trần) hai vị đã lưu lại
một thời gian, sưu tầm một số pháp bảo quý giá như kinh điển, pháp khí.
Trở về Huế, sư đã quyết định đặt tên chùa là Trúc Lâm Đại Thánh, có ý
liên hệ với Trúc Lâm tinh xá thời Phật còn tại thế và thiền phái Trúc
Lâm ở Yên Tử nước ta do Trúc Lâm Đầu Đà Đại Sĩ (hiệu của vua Trần Nhân
Tông) thiết lập.
Tổ khai sơn pháp danh
Trừng Thành, tự Chí Thông thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 42. Sư
thế danh Nguyễn Duy Quyển sanh năm 1879 tại làng Dạ Lê Thượng, Thủy
Phương, Hương Thủy. Lên 4 tuổi thì song thân mất, phải về ở với ông bà
đến năm 11 tuổi (1890) xin xuất gia và được thọ giáo với tổ sư Tâm Tịnh
(đời thứ 41 thuộc dòng Lâm Tế, người khai sơn tổ đình Tây Thiên). Đầu
tiên ngài được tu học tại tổ đình Từ Hiếu, nơi ngài Hải Thiệu đang làm
trụ trì và ngài Tâm Tịnh làm giám tự. Năm 14 tuổi ngài được tổ cho thọ
giới Sa-di. Năm 1907, Hòa thượng đàn đầu Vĩnh Gia tổ chức đại giới đàn
tại chùa Phước Lâm tỉnh Quảng Nam, ngài được cho đăng đàn thọ cụ túc
giới. Tại đây ngài được cử làm thủ chúng Sa-di khi vừa 28 tuổi.
Năm 1918 sư mở đại giới
đàn tại chùa Từ Hiếu, mời Hòa thượng Tâm Tịnh làm đàn đầu. Năm 1924 vân
tập đại Tăng an cư kiết hạ tại chùa, năm sau sư được chiếu chỉ của triều
đình mời làm trú trì ngôi quốc tự Diệu Đế.
Năm 1926, sư cho trùng tu
toàn bộ Phật điện và tăng xá chùa Trúc Lâm. Đến năm 1928 ngài biến Trúc
Lâm thành nơi đào tạo tăng tài. Năm Kỷ Tỵ 1929, ngài vào Tổ đình Thập
Tháp ở Bình Định mời Hòa thượng Phuớc Huệ ra Huế làm chủ giảng. Năm
1930, sư khuyến khích và giúp đỡ sư bà Diệu Hương xây dựng và mở Ni
trường Diệu Đức.
Năm 1931, sư là người đầu
tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo và vận động thành lập Hội
An Nam Phật học, thỉnh nhiều vị thiền sư tài đức về chung lo Phật sự.
Năm 1932, nhờ sự giúp đỡ của bà Từ Cung (Đoan Huy Hoàng Thái hậu), vua
Bảo Đại cho phép An Nam Phật học hội ra đời do sư đứng đầu, trụ sở đầu
tiên đặt tại chùa Trúc Lâm Huế. Năm 1933, sư ủy cử thiền sư Mật Khế vị
đệ tử xuất sắc của ngài mở trường An Nam Phật học sơ cấp tại chùa Vạn
Phước. Năm 1934 vua Bảo Đại ban sắc chỉ đặt tên chùa là “Sắc tứ Trúc Lâm
Đại Thánh tự ”.
Năm 1935, pháp sư Trí Độ
đảm nhiệm chức vụ Đốc giáo sau khi trường dời từ chùa Túy Vân (chùa
Thánh Duyên ) về chùa Báo Quốc. Trong năm này sư cùng đệ tử Mật Khế tổ
chức trường An Nam Phật học tại Trúc Lâm, thu nhận 50 học tăng. Đến cuối
năm ngài lại quy tụ các học tăng có trình độ cao về Trúc Lâm để mở thêm
cấp Đại học Phật giáo, và đó là lớp Đại học Phật giáo đầu tiên có tại
miền Trung. Ngoài vị đệ tử lớn của sư là thiền sư Mật Khế, còn có vị đệ
tử tại gia rất xuất sắc là Bác sĩ Lê Đình Thám, người đã soạn thảo
chương trình tu học cho thanh thiếu niên Phật tử. An Nam Phật học hội đã
hơn một lần tổ chức một đại lễ Phật đản lớn chưa từng có ở Huế.
An Nam Phật học hội qui tụ
được nhiều nhà tu hành uyên bác như các Thiền sư Mật Khế, Mật Thể, Đôn
Hậu, Diệu Hương, Diệu Không... các cư sĩ như Tiến sĩ Đinh Văn Chấp,
Nguyễn Khoa Tân, Bửu Bác... và ra báo Viên Âm, tổ chức các buổi thuyết
pháp, dịch Kinh sách
Ngày 2 tháng 10 năm Bính
Tý, sư cho quy tụ đồ chúng để nghe giảng kinh Pháp Bảo Đàn. Hai hôm sau
khi giảng xong phẩm Bát nhã, sư nhìn từng đệ tử để truyền kệ và vào lúc
20 giờ ngày mùng 4 tháng 10 niên hiệu Bảo Đại thứ 11 (tức ngày
17.11.1936) sư thị tịch lúc 57 tuổi trong lúc đang đảm nhận trách vụ trú
trì hai tổ đình Trúc Lâm - Diệu Đế và chứng minh đạo sư cho hội An Nam
Phật học.
Với công hạnh và đức độ
của sư, ngài Tâm Tịnh đã phó pháp bài kệ sau :
Giác đạo kiếp không Tiên
Không không bát nhã Thuyền
Quả nhân phù hạnh giải
Xứ xứ tức an nhiên.
(Đường giác kiếp không
trước, thuyền bát nhã không không, hạnh giải hợp nhân quả, ở đâu cũng
thung dung).
Ông Nguyễn Lang viết :
“Thiền sư Giác Tiên có thể gọi là người đã khởi xướng phong trào chấn
hưng Phật giáo miền Trung. Thiền sư hướng đạo cho hội An Nam Phật học
được bốn năm thì viên tịch. Các đệ tử của ngài là thiền sư Mật Khế, Mật
Hiển, Mật Nguyện và Mật Thể đều đóng những vai trò quan trọng trong
phong trào chấn hưng Phật giáo sau này”.
Thiền sư Mật Khế là một
trong những đại đệ tử của sư Giác Tiên. Sư là con ông Khóa họ Lê ở Thần
Phù và bà Nguyễn thị Lài người làng Cầu Ngói Thanh Toàn. Xuất gia từ năm
lên 7 tuổi sau khi cha qua đời, sư là một người thông minh lanh lợi làu
thông kinh sử ngay từ thuờ niên thiếu được mọi người trong chùa gọi là
chú tiểu Nam. Năm 20 – 22 tuổi khi đang tu học ở chùa Thánh Duyên -
Túy Vân (quê hương của đức Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại). Bà Từ Cung nghe
tiếng sư là người uyên bác nên cho vời sư vào cung để thuyết giảng phật
pháp.
Thiền Sư Mật Khế qua đời
khi còn rất trẻ khoảng 30 tuổi vì bị viêm phúc mạc do viêm ruột thừa,
hiện tại thiền sư còn một người em gái là cụ bà Hồ Thị Huyền vợ của ông
Ưng Úy (thượng thư bộ Lễ) và bà đang sống tại Tp HCM.
Thiền sư Mật Thể thế danh
là Nguyễn hữu Kê người làng Nguyệt Biều (Hương Thủy, Thừa Thiên) sinh
năm 1912, xuất gia năm 12 tuổi, tu học tại chùa Diệu Hỷ, Từ Quang, Trúc
Lâm. Năm 1930, được Hòa Thượng Giác Tiên nhận làm đệ tử pháp danh Tâm
Nhất, hiệu Mật Thể. Năm 1937 sang Trung Quốc học ỡ Phật Học Viện Tiêu
Sơn, năm 1941 dạy tại Phật học đường Lữơng Xuyên Trà Vinh, năm 1944 làm
trụ trì chùa Phổ Quang ở Huế và mất năm 1961 tại Nghệ An.
Thiền sư Mật Hiển là sư
ông trụ trì chùa Trúc Lâm lâu nhất, mất năm 1992 là ngươi có công nhiều
nhất trùng tu và xây dựng chùa Trúc Lâm để có được dáng vẻ như ngày hôm
nay.
Từ thành phố Huế xe đi
qua cầu Nam Giao vào con dường thẳng mà không bằng ấy đến đàn rẽ trái
vượt qua cầu Lim găp một con đường đất bên trái đi thêm khoảng 500 mét
là đến cổng chùa. Chỉ mất chừng nửa giờ đi xe là đến nơi, con đường đá
vàng cát trắng quanh co ngày xưa mà bác sĩ Lê Đình Thám đã từng mô tả :
Đường Trúc Lâm đá vàng
cát trắng,
Cảnh Trúc Lâm, cảnh
vắng người thanh
Dòng khe lượn khúc như
tranh
Rừng cây rợp bóng tươi
xanh bốn mùa.
Thoạt đầu để mở được con
đường quả thật là cam go vì khu vực này còn là rừng nguyên sinh, cây cối
tre trúc um tùm ít bóng ngươi lai vãng. Đất đai chưa có ai khai phá có
rất nhiều đoạn phải xẻ núi bởi triền đồi Dương Xuân Thượng có độ dốc khá
dựng đứng bên phải là vực sâu có giòng khe nước chảy xiết nhất là mùa
mưa bão.
Một trăm năm trước nhà
chùa chỉ làm được một lối mòn ven triền đồi để đi lại, xe ngựa không thể
vào đây được (dấu tích nay vẫn còn thấy). Sau những đợt trùng tu chùa
vào các năm 1926, 1942, 1968, 1992 con đường mới được rộng rãi như hôm
nay.
Tôi sinh ra và trọn tuổi
ấu thơ đã được sống bên cạnh chùa Trúc Lâm, ngôi chùa đã in một dấu ấn
sâu sắc trong tâm hồn tôi. Vả lại gia đình nhà tôi còn có một mối liên
hệ rất mật thiết với ngôi chùa này. Sư bà Diên Trường là em gái của ông
nội tôi là cụ Hồ Đắc Trung (Thượng thư bộ Học, Đông Các Đại Học Sĩ, thầy
dạy vua Duy Tân, bạn của hai ông Thái Phiên, Trần cao Vân và là người
duyệt lại bộ “Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu” một quyển sử quan trọng
của Quốc Sử Quán triều Nguyễn ).
Ờ trong Hậu tổ Chùa Trúc
Lâm hiện nay vẫn còn hai câu đối của ông nội tôi đề tặng khi Thiền sư
Giác Tiên viên tịch:
Học
hạnh khiêm ưu bình tố năng linh nhơn cảnh mộ
Tử
sanh vô ngại tu trì định hoạch Phật siêu thăng.
(nghĩa : Học hạnh khiêm ưu
thường được người ta mến mộ . Sống chết không ngại tu trì kết quả Phật
siêu thăng).
Vị kế Đông sơn phi cụ
nhãn yên minh tổ ý
Pháp khai Nam lĩnh thị mê nhơn bất khế Phật tâm.
(nghĩa : Ngôi nối núi Đông,
không mắt tỏ sao rõ ý tổ . Pháp mở rừng Nam, nếu người mê, không hiễu
tâm Phật).
Năm 1942 thiền sư Mật
Hiển đại trùng kiến chùa theo hình chữ khẩu, đưa chánh điện lên phía
trước, hai bên là đông đường dùng làm nhà khách và tây đường làm thiền
thất. Chánh điện cũ dùng làm nhà hậu để thờ chư vị tiền bối hữu công và
hương linh thiện nam tín nữ (trong đó gian giữa có khán thờ ông bà nội
và cha tôi).
Năm lên 6 tôi được mẹ cho
đi học ở một trường do các Cha cố dòng Thiên An lập ra ở ngã ba Cầu Lim.
Để đến trường có hai con đường, một là đi băng qua chùa Trúc Lâm và hai
là phải đi qua một cánh đồng.
Nhà tôi ở là cơ ngơi dinh
thự của bác tôi ông Hồ Đắc Khải , thượng thư bộ hộ để lại tọa lạc trên
một đỉnh đồi kế cận với đồi Thiên An, đó là một biệt thự to lớn bề thế
chiếm gần hết đỉnh đồi. Dứơi chân đồi là một cái hồ Vọng Nguyệt đường
kính khoảng 40 m và một cái hồ hình chữ nhật sen nở xanh tươi. Con đường
thoai thoải dốc chạy giữa hai cái hồ lên đến bãi đổ xe, dinh thự nằm
khuất sau những tán thông già phủ kín cả ngọn đồi. Mỗi ngày tôi phải đi
qua chùa ít nhất là 2 lần, nên cảnh trí của ngôi chùa đã in sâu trong
tâm hồn tôi từ thuở còn ấu thơ. Tôi thuộc từng viên đá trên con đường
mòn đó, thuộc từng bụi sim móc màu tim tím trĩu đầy trái, từng đám hoa
ngũ săc, gốc bứa gốc thông cổ thụ….
Cuối những năm của thập
niên 40 và đầu những năm 50 của thế kỷ trước, chiến tranh khốc liệt tràn
tới khu vực này, một biến cố làm thay đổi cuộc sống của gia đình tôi là
khi một chiếc máy bay “Bà Già” bị bắn rơi xuống sườn đồi. Xác máy bay
rơi vãi bên lăng mộ cụ Băng Tá sau lưng dinh thự của bác tôi, viên phi
công bị giết ngay tại chỗ. Sau đó quân đội viễn chinh Pháp gồm có nhiều
lính da trắng da đen lùng sục suốt ngày đêm, trả thù tàn bạo. Chúng lấy
đi hết gia sản và lùa đi đàn gia súc, bẻ hái cả một vườn cam mấy mẫu của
mẹ tôi tan hoang… dân chúng vùng Cư Chánh phải bồng bế nhau tản cư lên
Tu viện Thiên An để tránh giặc vì ở đó quân Pháp không được vào đến.
Rồi một tối cuối mùa hè
vào khoảng 23 giờ xuất hiện một toán người bịt mặt khoảng 50 người trang
bị cưa, dao, búa, câu liêm, thang. Chúng tôi được đánh thức dậy, tất cả
được dồn trong một phòng nhỏ, người cầm đầu trao đổi với mẹ tôi một điều
gì đó, mẹ tôi đi vào đóng cửa lại ôm hai anh em tôi và khóc. Bên ngoài
toán người hoàn toàn yên lặng, tôi không nghe tiếng người nói chuyện với
nhau mà chỉ nghe thấy tiếng gạch ngói đổ ầm ầm , tiếng sập của các bức
tường.. . Tôi ngủ thiếp đi trong cái âm thanh hỗn độn đó, sáng mai thức
giấc tôi hốt hoảng khi thấy khu dinh thự của mình chỉ còn là một đống
gạch đổ nát ngoại trừ căn phòng chúng tôi đang tá túc.
Mẹ tôi gom lại một ít vật
dụng cần thiết cho sinh hoạt của hai anh em chúng tôi, cùng một ngừơi vú
em đi qua chùa Trúc Lâm, những gia nhân khác thì ở lại để dọn dẹp đống
đổ nát.
Sư ông trụ trì tiếp chúng
tôi trong gian nhà khách ờ phía đông đường, ngài nói một vài điều gì đó
với mẹ tôi và sai người dọn cơm cho hai anh em tôi ăn. Vừa ăn xong là sư
ông cho chúng tôi vào lễ Phật và ông bà nội tôi rồi sai người dẫn đường
đưa ngay chúng tôi đi quanh sườn đồi phía sau lưng chùa ra ngả cầu Lim,
đi về phía lăng Thiệu Trị ra bến Than. Ở đó có một chiếc đò dọc đón sẵn
và đưa ba mẹ con tôi về làng Phú Lương cách khoảng hơn 20km. Khi đò đi
ngang qua dưới chân cầu Trường Tiền lúc nửa đêm, tôi nghe thấy tiêng
súng nổ vang trời phía thành phố, những vệt đạn như sao băng trên bầu
trời đen thẳm từ hướng An Hòa - Kim Long
Tôi trở lại Trúc Lâm lần
cuối vào năm 1952 khi cha tôi qua đời, lúc ấy quân Pháp đóng đồn ở Nam
Giao. Chúng ngăn con đường cấm dân chúng không được đi lại qua đồn. Từ
Huế muốn lên chùa Trúc Lâm hay lăng Khải Định dân phải đi vòng núi Bân,
Ba Đồn, Tây Thiên hoặc phải đi vòng qua Long Thọ. Mẹ tôi phải xin phép
viên sĩ quan Pháp để xe chở quan tài của cha tôi được đi ngang qua.
Sau tang lễ chúng tôi rời
Huế vào Saigon và 4 năm sau khi hòa bình được tái lâp, chúng tôi trở lại
Huế và kể từ đó cuộc sống của tôi gắn liền mật thiết với ngôi chùa này
hơn bởi nhiều lý do.
Lần đầu tiên tôi khám phá
những điều kỳ diệu của đạo Phật là ở nơi lầu chuông, trong chùa lúc bấy
giờ có mấy chú điệu cùng trang lứa với anh em tôi là Lưu Ân và Lưu
Phương. Ngày nọ, họ nói với tôi là “ sáng mai mồng một Tết rán thức dậy
thật sớm, tui sẽ dẫn anh Thiện (tên tôi) lên lầu cho anh gióng chuông,
hay và vui lắm”.
Đêm đó là đêm 30 tết, tôi
ra đứng ngoài sân chùa nhìn về hướng thành phố Huế thấy sáng rực lên một
góc trời. Pháo của nhà ai đó ngoài xóm nổ đi đùng vang tới cảnh chùa
khiến lòng tôi cũng nao nao. Tôi thầm giận mẹ đã không cho mình ở nhà,
đón giao thừa cùng với mấy anh chị em cô cậu thì vui biết bao (từ khi
cha mất chúng tôi về ở chung với anh mẹ tôi là cậu Lê đình Phu).
Tối đó trằn trọc mãi, vừa
giận mẹ vừa mong đến sáng để được lên lầu chuông và tôi thiếp đi cho tới
khi bị lay dậy bởi một trong hai chú điệu, nhưng Lưu Ân hay Lưu Phương
tôi không nhớ rõ. Chú ấy suỵt môi ra dấu cho tôi đi rửa mặt và thay áo
quần, chú kia đi trước cầm cái đèn hột vịt. Ngang qua nhà khách, leo một
bậc cấp dọc theo phía đông của nhà Tổ và chánh điện. Lầu chuông có hình
vuông. ba mặt tường có hoa văn nhìn ra phía ngoài, lối đi vào ăn thông
với hành lang của chánh điện. Một quả chuông rất to màu xám xanh được
treo trên một giá đỡ bằng gỗ. Mặt ngoài chuông trơn láng gờ lên những
hoa văn, so với thân hình của tôi lúc đó thì quả chuông thật vĩ đại.
Trên giá đỡ có một sợi dây căng ngang để móc các thẻ tre, cứ mỗi lần
dộng chuông thì kéo một thẻ từ phía nam qua bắc. Chày dộng bằng gỗ rất
đơn sơ được treo lên nóc bằng một sợi dây thừng, nghe nói là sư ông đã
cho thay cả chục cái chày, cho đến khi lựa được một cái chày vừa ý mà
sau này tôi cho là cái chày của sự tỉnh thức vì chỉ có cái chày đó khi
dộng chuông mới tạo ra một âm thanh vô cùng huyền diệu. Một âm sắc có
khả năng đưa con người trở về với thanh tịnh tâm. Tiếng chuông phát ra
từ cái dộng dầu tiên đã làm cho máu huyết trong cơ thể tôi muốn đảo
ngược lên sau đó điều hòa một cách nhẹ nhàng êm ái, tâm hồn trở nên vắng
lặng hư không. Tôi không còn ham muốn, ray rứt hoặc giận hờn mẹ tôi nữa
(vì đã không cho tôi ở lại dưới thành phố để đón giao thừa mà bắt buộc
tôi phải lên chốn sơn lâm cùng cốc này ăn tết). Hình như mọi chuyện đều
trở nên đơn giản và thân thiện khi nghe tiếng ngân….( bạn sẽ tự cảm nhận
được điều đó khí cố lắng nghe những âm vang gần cuối cùng của tiếng ngân
) mơ hồ như từ một cõi ta bà nào đó vọng tới, một thông điệp cuộn tròn
trong những tiếng ngân cuối cùng. Tâm hồn thơ ấu của tôi đang theo sau
bước hành thiền của tiếng chuông, tôi đang được tách rời ra khỏi với thế
giới hiện tại thì có tiếng thúc giục của Lưu Ân báo cho tôi biết là đến
lúc phải dộng tiếng chuông kế tiếp làm tôi ra khỏi trạng thái “hôn mê”
đó.
Sau lần được gióng chuông
, tôi bắt đầu tìm hiểu những điều bí ẩn trong gian chánh điện là nơi mà
tôi ít khi được lên đó một mình hay nói cách khác là tôi không dám lên
khi không có ai. Lúc đó tôi chỉ thích cái sàn nhà của chánh điện, nó mát
lạnh tuyệt vời mà không phải bất cứ chùa nào ở Huế cũng có được. Chỉ cần
nằm lăn lên trên cái sàn nhà đó là hạnh phúc và bình an đến với tôi, tôi
không còn sợ hãi ma quỉ hù dọa, cảm giác như được mẹ ôm vào lòng, che
chở và từ đó thỉnh thoảng nếu thấy không có ai thì tôi lén chạy lên nằm
lăn lên đó cho “đã thèm” ! Một lần tôi bị sư ông bắt gặp, có lẽ sư ông
thấy hêt hành động của tôi từ đầu chí cuối, tôi lăn lộn như một chú chó
con mừng chủ đi xa trở về, ngụp lặn hạnh phúc trong cõi bình an một cách
tột độ trước mặt hình tượng im lặng trang nghiêm của đức Thế Tôn đang
ngự trên tòa sen. Tôi đã hốt hoảng biết chừng nào khi nhận ra là sư ông
đang nhìn mình nằm lăn ra như vậy.
Ngài không nói mà chỉ nhìn
tôi đang sợ hãi bối rối đứng lên rồi ngài đến nhẹ nhàng cầm bàn tay nhỏ
bé của tôi đang run rẩy dẫn qua phía tây của chánh điện, vòng ra phía
nhà Tổ và chỉ cho tôi ảnh của một người râu ria xồm xoàm vai vác một cây
gậy có treo một chiếc giày. Mãi đến mấy chục năm sau, tôi mới biết người
ấy là ai và bây giờ thì chánh điện và hậu tổ được thầy Lưu Thanh mô tả
như sau :
Qua vuông sân nhỏ, du
khách đến trước chánh điện kiến trúc theo kiểu Á Đông. Mái cong lợp ngói
đỏ có gắn long, lân, quy, phụng trên nóc và chia làm ba phần : phía
trước là tiền đường, giữa là chánh điện, sau là hậu tổ. Tiền đường tả
hữu là lầu chuông trống, chánh điện bên trong khám thờ đức Bổn sư, bên
trái có ngài Ca-diếp đứng cầm hoa sen miệng mỉm cười, bên phải có ngài
A-nan tay bưng bình bát như đang chờ đợi đệ tử kế thừa. Ở tầng kế tiếp
thờ đức Phật Dược sư, hai bên có đức Quan Âm và Địa Tạng. Phía trước
tầng này là bàn để chuông mõ. Trên tường có treo bức hoành sơn son thếp
vàng bảy chữ “Sắc tứ Trúc Lâm đại thánh tự” và dòng chữ nhỏ “Bảo Đại bát
niên cát nhật tạo”.
Gian bên trái phía trên
thờ ngài Văn-thù-sư-lợi, bàn thấp hơn thờ đức Quan Thế Âm, cạnh bên trái
sát tường là tôn tượng ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Gian bên phải phía trên
thờ ngài Phổ-hiền, thấp hơn là bàn thờ ngài Đại Thế Chí, cạnh tường là
tôn ảnh của ngài Thạch Liêm Thích Đại Sán. Phía ngoài là hai bàn Tiêu
Diện và Hộ Pháp đối diện nhau.
Hậu Tổ
cách chánh điện bằng một bức tường ván sơn trắng nhạt. Gian giữa thờ di
ảnh tổ Giác Tiên bằng sơn mài lọng kiếng, trên bàn thờ có ba long vị: ở
giữa là long vị của tổ Phước Huệ chùa Thập Tháp Di-đà tỉnh Bình Định;
bên trái là long vị tổ Tâm Tịnh khai sơn chùa Tây Thiên, và bên phải là
long vị tổ Huệ Pháp giáo thọ chùa Thiên Hưng. Phía dưới ba long vị này
là long vị của ngài Giác Tiên, thấp hơn nữa là long vị Hòa thượng Thích
Mật Hiển; hai bên có di ảnh của hai ngài. Từ tường nhìn ra, hai bên có
hai câu đối của cụ Hồ Đắc Trung thân phụ của sư bà Diệu Không đề tặng
khi ngài Giác Tiên vừa viên tịch:
Học hạnh khiêm ưu bình
tố năng linh nhơn cảnh mộ
Tử sanh vô ngại tu trì
định hoạch Phật siêu thăng.
Vị kế Đông sơn phi cụ
nhãn yên minh tổ ý
Pháp khai Nam lĩnh thị
mê nhơn bất khế Phật tâm.
Trên bàn thờ tổ có thờ bộ
kinh Kim Cang thêu trên lụa Tàu. Pháp bảo này do sư bà Diệu Nhàn phát
tâm thêu bằng chữ Hán vào đời Cảnh Thịnh thứ 8, có bài tựa do chính vua
ngự đề tại thành Thăng Long, được chúa Nguyễn thỉnh về kinh đô Huế để
thờ. Bộ kinh này bị thất lạc trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Sau tổ
Giác Tiên trên đường hoằng hoá gặp được ở một ngôi chùa làng, ngài xin
thỉnh về thờ tại tổ đình Trúc Lâm. Cùng với bộ kinh này là một lư trầm
bằng đá có từ đầu triều Nguyễn. Mặt trước lư khắc ba chữ ‘Sơn bảo tự”
mặt sau khắc ba chữ “Bát sơn lô” và hai bên có chạm khắc hai bài thơ chữ
Hán đường nét rất đẹp, hiện vẫn được dùng xông trầm cúng Phật tại chùa.
Ngoài ra chùa còn giữ một
pháp bảo vô cùng trân quý là cái bình bát bằng kim sa của tổ Thạch Liêm
Thích Đại Sán, vị trú trì đầu tiên của chùa Thiên Mụ. Sau vì chiến tranh
loạn lạc, bình bát này trôi dạt ngoài dân gian cho đến ngày tổ Giác Tiên
cũng nhân đi hành hoá ở thôn quê mà gặp được. Biết là bảo vật vô giá,
ngài đã kiếm tiền mua về để thọ trì, bình bát được trở lại chốn thiền
môn kể từ ngày đó.
Bên tả bàn thờ tổ là bàn
thờ chư tăng viên tịch, bên hữu thờ di ảnh và bài vị của sư bà Diên
Trường và chư ni đệ tử.
Tôi chưa bao giờ kể chuyện
sư ông bắt gặp tôi nằm lăn ra sàn nhà chánh điện với ai. Đó là ảo ảnh,
hư cấu hay là một giấc mơ tẩu hỏa nhập ma trong thời thơ ấu của mình để
mà suy nghiệm lời của đức Thế Tôn dạy “ Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng,
huyễn, bào ảnh như lộ, diệc như điểu, ưng tác như thị quán ”
Sư ông đã viên tịch cách
đây 10 năm, nhục thân của sư ông không biết bây giờ ra sao, duy chỉ có
đôi mắt của và thần cách của sư ông là vẫn còn sống mãi trong tâm hồn
tôi. Cho đến bây giờ đã qua tuổi 60 tôi vẫn còn “mơ hồ” về đôi mắt ấy,
sự im lặng thiêng liêng ấy, bàn tay âm áp của ngài khi cầm bàn tay nhỏ
bé đang run rẫy của tôi và cái mật hiễn mà sư ông chỉ cho tôi hình của
ngài Bồ Đề Đạt Ma là gì tôi cũng đang còn “mơ hồ” !
Một năm trước khi sư ông
viên tịch, tôi có gặp ngài tại chùa Già Lam và đôi mắt ấy sáng hơn, mạnh
mẽ và dữ dội hơn. Những tia sáng từ mắt ngài xuyên thủng mọi mầm mống ác
độc, nghi ngờ và đọc dò cả một quá khứ ẩn chứa trong tiềm thức của tôi.
Hình như trước đôi mắt của sư ông, tôi không thể dấu diếm, che đậy, ma
mãnh được bất cứ điều gì và cũng trong tia sáng từ đôi mắt ấy tôi tìm
được sự bình an vĩnh cửu, thảnh thơi và hình như sư ông cũng “mơ hồ”
không muốn giải mã về hành động của sư ông khi chỉ tay về phía hình của
ngài Bồ Đề Lạt Ma…
Giếng nước trước và sau
chùa, khóm trúc, con suối vòng vèo, tiếng ngân cuối cùng trong lầu
chuông, sàn nhà trước chánh điện, đôi mắt của sư ông và kỷ niệm của
những đêm trừ tịch là tất cả những gì về chùa Trúc Lâm trong tâm trí tôi.
“ Đảnh lễ hay là quỳ lạy
thì cũng vậy thôi , sửa làm chi anh cứ để nguyên như vậy ” lời của thầy
Trí Quang nói với tôi khi mẹ tôi qua đời lúc bà 92 tuổi , mẹ tôi đả có
lần nói “ ngồi bên mộ ba tôi , me vẫn còn nghe được tiêng chuông chùa
Trúc Lâm vọng đến , âm vang của tiếng chuông bay qua núi đồi khe suối
len vào những tàng thông già cỗ thụ , vổ về nhửng tia nắng cuối cùng của
buổi chiều tỉnh lặng…. ”
Còn đối với tôi chùa Trúc
Lâm là hóa thân của đôi mắt sư ông